Chương 2
Tôn Thiếu Bình đi học thực sự vô cùng gian nan. Ở tuổi mười bảy, mười tám, đúng thời kì thanh niên có sức ăn, sức uống, thế nhưng mỗi bữa cậu chỉ có thể nhai hai chiếc bánh bột cao lương. Trước đây, cậu từng nghe cha mình nói rằng, trong xã hội cũ, ngay cả địa chủ nuôi gia súc cũng không dùng cao lương—đó là loại lương thực nghèo dinh dưỡng nhất. Thế nhưng, ngay cả thứ bột cao lương ấy, cậu cũng chẳng có đủ để ăn. Với khẩu phần của cậu, mỗi bữa ít nhất phải cần bốn, năm cái bánh đen ấy mới no. Bây giờ, chút thức ăn ít ỏi này cũng chỉ đủ để không chết đói mà thôi. Nếu suốt ngày chỉ ngồi trong lớp học thì còn có thể cố chịu được, nhưng vào thời buổi này, khi “mở cửa trường học,” học sinh không chỉ phải đi khắp nơi học lao động nông nghiệp, mà ngay cả ở trường cũng phải học nửa ngày, lao động nửa ngày.
Còn về chuyện học hành, thực chất chẳng có sách giáo khoa, chỉ có tài liệu in dầu do khu phân phát, và chủ yếu lên lớp là để nghe đọc xã luận trên báo. Từ khi khai giảng đến giờ, lớp chưa thực sự có buổi học nào ra hồn, cả lớp ngày ngày chỉ ở trong phòng học để thảo luận về lý luận chuyên chính vô sản. Dĩ nhiên, phần lớn người phát biểu là học sinh thành phố, còn học sinh nông thôn, trừ vài người to gan, vẫn chưa ai dám lên tiếng.
Còn lao động thì không thể nào trốn tránh được. Từ hai giờ chiều đến tận lúc ăn cơm tối, thời gian ấy đối với Tôn Thiếu Bình mà nói là khó khăn nhất. Mỗi khi cậu gánh một thùng đất rác từ chân dốc ngoài cổng trường lên vùng đất đồi phía sau, cậu chỉ cảm thấy hoa mắt, trời đất quay cuồng, đầu óc trống rỗng, suy nghĩ không còn tồn tại, chỉ còn lại hai chân run rẩy gắng gượng lê từng bước trên con đường núi.
Nhưng có lẽ những điều đó cậu vẫn còn có thể chịu đựng được. Điều khiến cậu đau khổ nhất lúc này chính là sự tổn thương lòng tự trọng mà cái nghèo mang đến. Cậu đã mười bảy tuổi, trong lồng ngực đang đập một trái tim nhạy cảm và e dè. Cậu khao khát được mặc bộ quần áo tươm tất mà đứng trước mặt các nữ sinh; cậu mong mỗi ngày khi xếp hàng mua cơm cũng có thể như người khác, lấy một suất rau trộn và có thêm một chiếc bánh bao trắng hoặc vàng trong mỗi bữa ăn. Không chỉ vì cậu thèm ăn, mà còn vì cậu muốn sống một cách tôn nghiêm. Cậu không hề mơ ước có điều kiện như học sinh thành phố, chỉ mong được như phần lớn học sinh nông thôn trong lớp cũng đã mãn nguyện rồi.
Thế nhưng, điều đó là không thể. Gia đình cậu có thể để cậu—một thanh niên khỏe mạnh—không phải làm việc kiếm công điểm mà được đến huyện học cấp ba, đã là vô cùng khó khăn rồi. Năm xưa, để cậu và em gái được đi học, anh cả của cậu, khi mới mười ba tuổi, vừa tốt nghiệp tiểu học đã phải nghỉ học, không thi lên cấp hai mà về nhà làm nông. Còn chị gái cậu thì từ nhỏ đến lớn, chưa từng được đi học một ngày nào. Lúc này đây, ngoài lòng biết ơn sâu sắc dành cho những người thân yêu nhất của mình, cậu còn có thể đòi hỏi thêm điều gì nữa?
Thiếu Bình biết rằng, cuộc sống ở nhà đã gần như đến mức sụp đổ. Bà nội gần tám mươi tuổi, nằm liệt trên giường; cha mẹ cậu cũng đã già, chân tay yếu ớt, chẳng làm ra bao nhiêu công điểm; em gái cậu thì mới vào cấp hai ở trường công xã, chi phí ăn mặc lại tăng thêm; còn chị gái cậu thì lấy phải một người chồng lông bông, một mình nuôi hai đứa con nhỏ, bữa đói bữa no, mà nhà cậu vẫn phải thường xuyên giúp đỡ chút lương thực để cứu đói—cha mẹ cậu thương hai đứa cháu ngoại, thường xuyên đón chúng về nhà nuôi.
Trong nhà thực chất chỉ còn anh cả là lao động chính—mà anh cũng chỉ mới hai mươi ba tuổi! Người anh yêu quý của cậu đã gánh vác trọng trách gia đình từ năm mười ba tuổi; nếu không có anh, cả nhà không biết sẽ lụn bại đến mức nào.
Nói cho cùng, từng ấy con người, với hai lao động chính là cha và anh trai cậu, lẽ ra vẫn có thể duy trì cuộc sống. Nhưng bao năm qua, dân làm nông chịu khổ không ít, thế mà năm nào cũng vẫn trắng tay. Đội sản xuất đã nghèo, nhà làm sao không nghèo cho được? Hơn nữa, cha mẹ cậu vốn dĩ thật thà, không tháo vát, từ gốc rễ đã nghèo đến tận xương tủy. Hết năm này qua năm khác đều thiếu thốn, mỗi năm lại nghèo thêm một chút, mà dường như chẳng còn hy vọng gì có thể khá lên… Trong hoàn cảnh như vậy, cậu còn có thể nói gì về việc được học cấp ba nữa? Mà nói đi cũng phải nói lại, cho dù nhà có chút gì ngon, có chút gì đẹp, thì cũng phải nghĩ cho bà nội già và em gái nhỏ trước tiên; huống hồ lại còn hai đứa trẻ thơ dại của chị gái!
Ở trong môi trường này, cậu cảm thấy tự ti. Mặc dù cậu là người cao nhất lớp, nhưng cậu lại cảm thấy mình thấp bé hơn tất cả mọi người.
Mà cái nghèo lại khiến cậu trở nên quá đỗi tự tôn. Cậu thường có cảm giác người khác đang chế giễu sự nghèo khổ của mình, vì vậy, trong lòng cậu nảy sinh một sự phản kháng méo mó đối với những bạn học có gia cảnh tốt hơn. Như ngay lúc này đây, cậu đã có ác cảm mạnh mẽ với lớp trưởng Cố Dưỡng Dân, kẻ lúc nào cũng ra vẻ bề trên. Mỗi khi thấy hắn đứng trên bục giảng, ăn mặc bảnh bao, thời thượng, vừa điểm danh vừa nhấc cổ tay lên xem đồng hồ, trong lòng cậu lại bùng lên một ngọn lửa giận dữ không sao kiềm chế nổi. Lần nọ, đến lượt cậu điểm danh, cậu cố tình im lặng. Lớp trưởng trừng mắt nhìn cậu, gọi tên cậu lần nữa, cậu vẫn không đáp. Nếu là hồi cấp hai, chuyện này có khi đã dẫn đến một cuộc ẩu đả ngay lập tức. Có lẽ vì cả lớp vừa lên cấp ba, chưa hiểu rõ nhau, nên lớp trưởng trước sự khinh thường đến nhục mạ này vẫn cố nhịn, rồi tiếp tục điểm danh người khác.
Sau khi tan lớp, cậu cùng Kim Ba, người bạn cùng làng, đi ra khỏi phòng học. Kim Ba cười rạng rỡ, giơ ngón tay cái lên, nói nhỏ: “Hay đấy!”
“Tôi lo thằng nhóc này muốn đánh nhau với mình.” Sau đó, Tôn Thiếu Bình có chút hối hận về hành động vừa rồi của mình.
"Hắn dám chắc!" Kim Ba trừng đôi mắt to tròn, vung nắm đấm lên không trung.
Kim Ba bằng tuổi cậu, nhưng lại thấp hơn cậu một cái đầu. Da cậu ta trắng trẻo, nét mặt thanh tú, trông giống như một cô gái. Nhưng tính cách cậu ta lại rất cứng cỏi, làm việc gì cũng nhanh nhẹn, tháo vát. Lúc bình thường thì dịu dàng như con gái, nhưng khi hành động lại như một con hổ.
Cha của Kim Ba là tài xế xe tải của công ty vận tải khu vực, điều kiện gia đình khá hơn một chút so với Tôn Thiếu Bình. Trong lớp, cậu ta thuộc nhóm có mức sống cao. Nhưng mối quan hệ giữa Thiếu Bình và cậu "đại gia" này lại vô cùng tốt. Hai người chơi với nhau từ nhỏ, rất hợp tính nhau. Sau đó, họ lại học cùng nhau suốt những năm tháng trưởng thành. Ở trong làng, cha của Kim Ba đi làm xa, trong nhà thường có những việc nặng nhọc, và cha hoặc anh trai của Thiếu Bình thường hay đến giúp đỡ. Ngoài ra, em gái của Kim Ba cũng học cùng lớp với em gái của Thiếu Bình, hai đứa nhỏ thân nhau như hình với bóng. Còn về sự giúp đỡ của Kim Ba dành cho cậu thì khỏi phải nói.
Hồi học cấp hai ở công xã, trường cách làng hơn mười dặm, để tiết kiệm lương thực và tiền bạc, họ đều ăn cơm ở nhà – tối về nhà, sáng hôm sau đến trường, mang theo phần cơm trưa. Mỗi ngày đi về hai mươi dặm đường. Kim Ba và Điền Phúc Đường – con trai bí thư đội sản xuất – đều có xe đạp, chỉ có mình Thiếu Bình là phải đi bộ. Kim Ba thường chở cậu trên xe. Hai năm trôi qua, xe của Điền Phúc Đường vẫn còn mới, trong khi xe của Kim Ba đã tàn tạ đến mức không dùng được nữa. Cuối cùng, cha cậu ta phải mua cho cậu ta một chiếc xe mới.
Bây giờ lên đến huyện học, cách nhà sáu, bảy mươi dặm, mỗi tuần về một lần, Thiếu Bình lại càng không thể thiếu chiếc xe đạp của Kim Ba. Ngoài ra, từ khi lên đây, Kim Ba còn nhiều lần dúi cho cậu mấy phiếu mua bánh bao trắng. Nhưng cậu cứ từ chối không nhận – bởi vì trong thời buổi này, ai cũng khó khăn, phiếu bánh bao đâu có dư dả; hơn nữa, vài cái bánh bao trắng cũng chẳng giải quyết được gì, lại còn có thể làm hư cái dạ dày đã quen chịu khổ của cậu…
Dù việc học này vô cùng gian nan, nhưng trong sâu thẳm, Tôn Thiếu Bình vẫn có một niềm vui khó diễn tả thành lời. Cậu đã bước ra khỏi góc núi quê nghèo, đặt chân đến một thế giới rộng lớn hơn. Đối với một đứa con nhà nông dân nghèo, bản thân điều này đã là một chuyện vĩ đại biết bao!
Mỗi ngày, chỉ cần không có việc gì ở trường, cậu lại một mình lang thang khắp nơi trong thành phố: từ những con phố lớn đến ngõ nhỏ, từ trong thành ra ngoài thành, không bỏ sót góc nào chưa đi qua. Ngoại trừ vài cơ quan khiến người ta phải kính sợ – như Ủy ban Cách mạng huyện, Bộ Chỉ huy quân sự huyện và Công an huyện – hầu như cậu đã đi qua sân của rất nhiều cơ quan khác. Cách mà cậu vào được thường là giả vờ đi vệ sinh để đánh lừa mấy ông già giữ cổng.
Vì là người lạ nơi đây, cậu cũng không cảm thấy bộ quần áo rách rưới của mình là đáng xấu hổ trong chốn đông người. Cậu tự do dạo khắp nơi, tận hưởng từng ngóc ngách của thành phố này. Cậu thu nhận vô số ấn tượng mới lạ, thậm chí cảm thấy ngay cả mùi khói than bốc lên trong không trung cũng có một nét độc đáo riêng. Dĩ nhiên, rất nhiều điều mới mẻ mà cậu nhìn thấy, cậu vẫn chưa thể hiểu hết, nhưng không thể phủ nhận rằng tất cả chúng đều đang tác động đến tinh thần cậu.
Qua tấm gương phản chiếu của cuộc sống thành phố, dường như cậu nhìn thấy rõ hơn ngôi làng nơi mình đã sống hơn mười năm. Ở thế giới cũ kỹ, quen thuộc ấy, những điều từng có ý nghĩa giờ đây bỗng trở nên nhạt nhòa; còn những thứ trước đây cậu không mấy để tâm, thì nay lại hiện lên sống động trong lòng.
Ngoài những cuộc lang thang vô định ấy, cậu còn hình thành một thói quen mới: đọc sách ngoài giờ học. Thói quen này bắt đầu từ năm cuối cấp hai.
Một lần, khi đến nhà Điền Phúc Đường, cậu thấy trên nắp hòm của họ có một cuốn sách dày mà mẹ của Điền Phúc Đường đang dùng để ép mẫu giày. Cuốn sách có tên là Thép đã tôi thế đấy. Ban đầu, cậu chẳng để ý – một cuốn sách về luyện thép thì có gì thú vị chứ? Nhưng khi lật qua vài trang, cậu chợt thấy có gì đó không ổn. Rõ ràng là một cuốn sách về luyện thép, nhưng bên trong lại chẳng nói gì về việc luyện thép hay sắt, mà chỉ toàn kể chuyện về một người Liên Xô tên là Pavel Korchagin. Sự tò mò mãnh liệt bỗng trào dâng trong lòng cậu. Cậu muốn đọc xem rốt cuộc cuốn sách này là thế nào.
Điền Phúc Đường nói đó là sách của chị cậu ta – chị ấy dạy học ở huyện, ít khi về nhà; còn cuốn sách là do mẹ cậu ta mang từ thành phố về để ép giày.
Sau khi nhận được sự đồng ý của mẹ Điền Phúc Đường, cậu vội vàng mang cuốn sách về nhà và lập tức say mê đọc.
Cậu lập tức bị cuốn hút bởi cuốn sách này. Hôm sau là Chủ nhật, bình thường vào ngày này cậu đều phải vào núi đốn một bó củi mang về cho gia đình. Nhưng hôm đó, cậu chẳng đi đâu cả, chỉ một mình trốn sau đống rơm rạ ở sân đập lúa trong làng, say mê đọc sách đến tận lúc trời tối.
Câu chuyện về Pavel Korchagin, một người nước ngoài bình thường, đã gây chấn động mạnh mẽ trong tâm hồn non trẻ của cậu.
Trời tối hẳn, cậu vẫn chưa về nhà. Cậu ngồi thẫn thờ bên bãi sân lúa, ngước nhìn bầu trời đầy sao, lắng nghe tiếng nước suối chảy róc rách, chìm sâu vào những suy nghĩ mơ hồ khó tả. Những suy nghĩ ấy vừa rời rạc, bay bổng, lại vừa sâu thẳm khó lường. Cậu chợt nhận ra rằng bên ngoài thôn Song Thủy nhỏ bé, bị bao bọc bởi những ngọn núi trập trùng kia, là một thế giới rộng lớn bao la. Nhưng điều quan trọng hơn là, cậu mơ hồ nhận thức được rằng bất kể một người xuất thân thế nào, ở hoàn cảnh ra sao, cũng đều có thể sống một cuộc đời thật đáng giá!
Trong khoảnh khắc ấy, chất thơ của cuộc sống tràn ngập trong lồng ngực tuổi mười sáu của cậu. Trước mắt cậu hiện lên gương mặt gầy guộc của Pavel cùng với dáng vẻ đầy sức sống của anh ta. Đôi mắt xanh biếc của anh vẫn nhìn cậu từ phương xa, đầy tình cảm như một người anh em. Dĩ nhiên, cậu cũng không thể nào quên cô gái xinh đẹp, con nhà giàu – Tonya. Cô ấy thật tuyệt! Cô từng yêu chàng trai nghèo khổ Pavel với cả trái tim mình.
Đến cuối cùng, Thiếu Bình vẫn không hề oán giận Tonya. Khi đọc đến đoạn hai người chia tay, cậu không kìm được nước mắt. Cậu nghĩ: "Nếu mình cũng gặp được một người con gái như Tonya thì thật tuyệt biết bao!"
Ngày hôm đó, cậu quên cả ăn uống, cũng chẳng nghe thấy tiếng người nhà gọi mình. Cậu quên đi mọi thứ xung quanh, mãi cho đến khi về đến nhà, nghe thấy tiếng cha càu nhàu, nhìn thấy ánh mắt trách móc của anh trai, rồi cầm bát cháo kê nguội ngắt trên bếp, cậu mới thực sự trở về với hiện thực lạnh lùng của cuộc sống...
Kể từ đó, cậu mê mẩn tiểu thuyết, đặc biệt là sách văn học Liên Xô. Trước khi lên cấp ba, cậu đã đọc xong Câu chuyện về Zoya và Shura.
Bây giờ, cậu cố gắng tìm kiếm sách ở thư viện trường và thư viện văn hóa huyện. Những cuốn sách mới xuất bản gần đây cậu không thích nữa, bởi vì sau khi đã đọc vài cuốn tiểu thuyết Liên Xô, những cuốn sách Trung Quốc mới này chẳng còn hấp dẫn với cậu nữa. Cậu chỉ tìm kiếm sách nước ngoài và những cuốn xuất bản trước thời Cách mạng Văn hóa.
Dần dần, mỗi ngày cậu đều chìm đắm trong sách vở. Khi không có việc gì làm, cậu lại nằm cuộn tròn trong đống chăn rách của mình, đọc không ngừng nghỉ. Ngay cả khi ra ngoài đi dạo, cậu cũng kẹp một quyển sách dưới cánh tay – đi dạo chán rồi thì tìm một chỗ yên tĩnh để đọc. Về sau, thói quen này còn phát triển đến mức cậu lén đọc sách ngay trong lớp học, trong các buổi họp lớp hoặc giờ học chính trị, giấu sách dưới bàn mà đọc trộm.
Không lâu sau, việc cậu không quan tâm đến chính trị vô sản mà chỉ lo đọc những "sách phản động" đã bị một bạn học tố cáo với giáo viên chủ nhiệm. Người tố giác là Hầu Ngọc Anh, một cô gái què ngồi không xa chỗ cậu. Cô là người rất thích quan tâm đến chuyện riêng của người khác. Có vẻ như khuyết tật về thể chất cũng mang đến một dạng thiếu hụt về tinh thần: trong cuộc sống, cô thích chú ý đến lỗi lầm của người khác, như thể muốn chứng minh rằng trên đời này chẳng ai là hoàn hảo cả – chân của các người có thể lành lặn hơn tôi, nhưng ở những mặt khác chưa chắc đã hơn tôi đâu!
Hầu Ngọc Anh luôn là người đầu tiên phát biểu trong các buổi thảo luận, hùng hồn giảng giải lý luận chuyên chính vô sản chẳng khác gì cán bộ. Dù chân không lành lặn, cô vẫn cố gắng giành làm những việc nặng khi lao động. Tất nhiên, cô cũng hay làm những "việc tốt", nhưng đồng thời cũng như một "ủy viên kỷ luật", giám sát chặt chẽ mọi hành vi không đúng với tinh thần cách mạng của cả lớp.
Hôm đó, lớp đang học bài xã luận Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu học tập của Nhân dân Nhật báo, giáo viên chủ nhiệm điều hành, lớp trưởng Cố Dưỡng Dân đọc báo. Tôn Thiếu Bình chẳng nghe lấy một chữ, cúi đầu lén đọc tiểu thuyết dưới bàn. Cậu hoàn toàn không biết rằng cô gái què đã ra hiệu cho giáo viên chủ nhiệm về hành vi không đúng đắn của mình.
Chỉ đến khi thầy giáo bước đến bên cậu, giật mạnh cuốn sách khỏi tay, cậu mới sững sờ kinh ngạc. Cả lớp lập tức cười ồ lên. Cố Dưỡng Dân dừng đọc báo, trông có vẻ như một người ngoài cuộc, nhưng Thiếu Bình lại cảm thấy lớp trưởng đang có chút hả hê, chờ xem giáo viên xử lý cậu thế nào.
Giáo viên chủ nhiệm đặt cuốn sách bị thu giữ lên bàn giảng, không nói gì, chỉ ra hiệu cho Cố Dưỡng Dân tiếp tục đọc báo.
Sau buổi học, thầy gọi cậu vào phòng giáo viên, bất ngờ trả lại cuốn sách và nói: "Hồng nham là một cuốn sách hay, nhưng sau này đừng đọc trong giờ học nữa. Đi đi…"
Tôn Thiếu Bình với lòng biết ơn rời khỏi phòng giáo viên. Trong ánh mắt thầy, cậu không thấy một chút trách móc nào, mà ngược lại, đó là sự thân thiết và nhiệt tình. Một chuyện nhỏ nhặt như thế này khiến cậu càng trân quý sách hơn. Đúng vậy, ngoài mấy chiếc bánh ngô đen mỗi ngày, cậu còn có gì nữa đâu? Chỉ có những cuốn sách này mới khiến cậu cảm thấy cuộc sống vẫn có ý nghĩa, tinh thần mới tìm được chút an ủi, và cũng chính chúng khơi dậy trong cậu những khát vọng tốt đẹp về tương lai. Nếu không có điều này, cậu chẳng thể nào vượt qua mỗi ngày gian nan và đau khổ trước mắt.
Nhưng trong cuộc sống hiện tại của cậu, thực ra vẫn còn một điều nhỏ bé khác, khó diễn tả thành lời, nhưng lại mang đến cho cậu chút hơi ấm và niềm vui. Chuyện này, thực ra, chúng ta cũng đã biết rồi. Đó chính là: mỗi khi đến giờ ăn, lúc mọi người đã rời đi hết, cậu một mình đến lấy hai chiếc bánh ngô đen của mình – và vào khoảnh khắc đó, cậu luôn thấy một người khác cũng đang làm cùng một việc.
Lúc đầu, cậu và cô gái tên Hà Hồng Mai chẳng hề để ý đến nhau, mỗi người chỉ lặng lẽ cầm lấy phần ăn của mình rồi rời đi.
Không biết từ hôm nào, khi đi ngang qua cậu, cô đã nhìn cậu một cái. Cậu cũng nhìn cô một cái. Dù không ai nói gì, nhưng thực ra đã nói rất nhiều. Trong cuộc sống, con người vẫn thường có một loại ngôn ngữ không cần lời. Từ đó, những lần "trò chuyện bằng ánh mắt" giữa hai người ngày một nhiều hơn.
Tôn Thiếu Bình nhận ra rằng, thực ra Hà Hồng Mai là cô gái xinh đẹp nhất lớp. Chỉ vì cô ăn mặc rách rưới, cộng thêm gương mặt xanh xao vì thiếu dinh dưỡng, nên không ai nhận ra điều đó. Ở lứa tuổi này, nhất là những chàng trai vừa có chút hiểu biết, thường thích thể hiện sự ân cần với những cô gái có vẻ "Tây". Đặc biệt là các nam sinh vừa từ nông thôn lên thành phố, trong mắt họ, con gái cán bộ thành phố chẳng khác nào tiên nữ giáng trần.
Tất nhiên, những chàng trai cô gái tuổi này chưa thể gọi là yêu đương nghiêm túc, nhưng họ đã có chút hiểu biết mơ hồ về điều đó. Chính vì mới chớm hiểu, nên họ lại càng mãnh liệt hơn những người từng trải. Ai mà chưa từng đi qua quãng thời gian ấy chứ? Ở độ tuổi đầy xao động và bất an như Werther*, dù chỉ là một cảm xúc nhỏ nhất giữa hai người khác giới cũng có thể khiến trái tim một thiếu niên dậy sóng dữ dội!
(* nhân vật trong tác phẩm Nỗi đau của chàng Werther)
Tuy nhiên, Tôn Thiếu Bình vẫn chưa đến mức ấy. Cậu chỉ đơn giản cảm thấy rằng, trong cuộc sống bấp bênh của mình, có một cô gái đang dõi theo cậu bằng ánh mắt dịu dàng và chân thành như thế, điều đó khiến cậu cảm thấy vô cùng ấm áp. Gương mặt gầy gò đáng thương của cô, chiếc cổ mảnh mai, tấm áo rách rưới chỉ vừa đủ che thân – tất cả những điều ấy như mặt hồ mùa xuân khẽ gợn lên trong lòng cậu.
Sau một thời gian "trò chuyện bằng ánh mắt", cuối cùng, một ngày nọ, khi lấy bánh xong, cô do dự bước đến gần cậu, khẽ hỏi:
“Hôm trước, thầy giáo tịch thu cuốn sách của cậu, tên gì vậy?”
"Hồng nham". Mình mượn ở thư viện văn hóa huyện." Cậu trả lời, tay cầm bánh hơi run lên. Cô đứng gần cậu đến thế, khiến cậu không dám nhìn cô nữa. Cậu bối rối cúi đầu, nhìn chằm chằm vào hai chiếc bánh đen trong tay.
“Trong đó có nhân vật Tưởng Giới Thạch…” Cô nói, giọng hơi ngập ngừng. Ban đầu cô không căng thẳng, nhưng thấy cậu lúng túng, cô cũng bỗng cảm thấy không tự nhiên.
Cậu vội nói: “Đúng vậy. Sau đó hy sinh rồi… rất bi tráng!” Cậu thêm vào một từ mà bản thân cảm thấy rất hay, nhưng vẫn không dám ngẩng đầu lên.
“Còn có cả Bà lão song súng.” Cô lại nói.
“Cậu cũng đọc rồi à?” Cậu lúc này mới dám liếc nhìn cô một cái.
“Mình chưa đọc. Nhưng trước đây, mình nghe bố kể về câu chuyện trong đó.”
“Bố cậu? Bố cậu đọc rồi sao?”
“Ừm.”
“Bố cậu là…?” Thiếu Bình ngạc nhiên. Một cô gái ăn mặc rách rưới như thế mà bố lại đọc Hồng nham ư? Cậu không hiểu được thân phận của bố cô.
“Bố mình là nông dân, thành phần không tốt, là địa chủ… Không, ông nội mình là địa chủ, cho nên…”
“Vậy bố cậu từng đi học sao?”
“Không, bố mình không học qua trường lớp. Ông nội mình học rồi. Bố mình biết chữ là do ông nội dạy. Nhưng ông nội mất sớm lắm… Mình chưa đọc Hồng nham, nhưng mình biết hát các bài trong vở nhạc kịch Hồng nham. Tên của mình cũng do bố đặt theo lời một bài hát trong đó. Trong nhạc kịch có một câu: ‘Trên Hồng nham, hoa hồng mai nở…’”
Cô nói nhỏ nhẹ, còn cậu thì ngẩn người lắng nghe.
Bất chợt, cô đỏ mặt hỏi: “Cậu đã trả sách chưa?”
Cậu đáp: “Chưa.”
“Có thể cho mình mượn xem không?”
“Được!” Cậu trả lời ngay lập tức.
Ngày hôm sau, cậu đưa sách cho cô.
Từ đó, mỗi cuốn sách Tôn Thiếu Bình đọc xong, cậu đều đưa cho Hà Hồng Mai. Dù là lúc cậu đưa sách cho cô, hay khi cô trả sách cho cậu, cả hai đều lặng lẽ thực hiện. Họ đều hiểu rằng, nếu chuyện một nam sinh và một nữ sinh thân thiết với nhau như vậy bị các bạn trong lớp phát hiện, thì cuộc sống của họ sau này sẽ chẳng thể nào yên ổn được!