Chương 7
Không hay không biết, Tôn Thiếu Bình đã làm thợ mỏ ở mỏ than Nhai Loan, thành phố Đồng Thành được nửa năm rồi.
Trong nửa năm ấy, anh dần thích nghi với môi trường sống mới này. Những hứng khởi, lo âu và cảm giác mới lạ ban đầu, giờ đã biến thành một cuộc sống thường nhật.
Anh hầu như không nghỉ một ngày làm nào, tháng nào cũng làm đủ ca. Điều này ngay cả trong số các công nhân lâu năm cũng là chuyện hiếm thấy. Mà những công nhân mới cùng đến với anh, chỉ cần không lén bỏ về nhà đã được coi là không tồi rồi. Ai cũng biết, lứa công nhân mới này đều là con em những gia đình có thân phận, họ rất khó trụ lại lâu dài trong nơi khổ cực và đầy nguy hiểm như thế này.
Trong vòng nửa năm, lại có không ít công nhân mới bỏ trốn. Những người bỏ trốn tất nhiên bị mỏ than xóa tên — điều đó đồng nghĩa với việc họ lại một lần nữa trở về thân phận nông dân. Có số ít không bỏ đi thì cũng không chịu làm việc tử tế dưới hầm. Họ lần lữa chờ đợi cha mình chạy vạy quan hệ khắp nơi để điều khỏi mỏ, tìm công việc tốt hơn. Thỉnh thoảng lại có người khoe rằng họ có thân thích làm quan to ở tỉnh hay trung ương. Quả thật, cục cũng nhận được mấy tờ “phiếu” do vài vị lãnh đạo cấp tỉnh viết, cho phép điều mười mấy công nhân đi nơi khác. Đồng thời, không ngừng có lãnh đạo huyện hoặc xã, lái xe chở đủ loại đặc sản quê nhà đến cục và mỏ để hoạt động, mong đưa con cái mình về lại địa phương. Những loại “lễ vật” kiểu này thường chỉ có thể giúp con cái họ đổi sang công việc tốt hơn trong mỏ, chứ không thể hoàn toàn rút ra khỏi mỏ được. Một số lãnh đạo trong mỏ tuy không từ chối “lợi lộc”, nhưng cũng không thể để tất cả công nhân dưới quyền đều rút đi hết, phải không?
Tôn Thiếu Bình đương nhiên không có chỗ dựa nào như thế. Anh cũng không có ý định thay đổi thân phận công nhân mỏ của mình nữa. Anh ngày càng cảm thấy hài lòng: công việc này tuy nguy hiểm và mệt nhọc, nhưng chỉ cần xuống hầm làm việc, thì không những được đảm bảo lương bổng, mà thu nhập còn rất khá.
Tiền đối với anh cực kỳ quan trọng. Anh phải gửi tiền cho cha để mua phân bón, mua dầu muối mắm giấm dùng hằng ngày. Anh còn phải gửi tiền cho em gái, để nuôi em học đại học. Ngoài ra, anh cũng phải xây dựng chút gì đó cho tổ ấm của riêng mình, mua vài cuốn sách báo tạp chí mà mình yêu thích.
Hơn nữa, anh còn một giấc mộng — là xây cho cha hai ba gian nhà hang mới. Anh muốn xây nhà hang đẹp nhất thôn Song Thủy! Để chứng minh rằng Tôn Thiếu Bình không phải là kẻ vô tích sự! Anh muốn tự mình hoàn thành việc này, không định để anh trai góp tiền — đây sẽ là một tấm bia tưởng niệm do chính bản thân anh dựng nên ở thôn Song Thủy!
Chính vì thế, anh không nỡ nghỉ một ngày làm nào; chính vì thế, trong công việc nặng nhọc như trâu ngựa, anh luôn giữ được niềm nhiệt huyết mãnh liệt.
Nhìn xem, lại đến ngày lĩnh lương rồi — đây là ngày hội lớn của công nhân mỏ than.
Tôn Thiếu Bình làm xong ca tám giờ, từ dưới hầm lên mặt đất, tắm nước nóng một trận sảng khoái, rồi đến văn phòng đội lĩnh lương.
Anh nhét một xấp tiền cứng lạnh vào túi, đi xuyên qua hành lang tối om của văn phòng đội đào lò tầng một, rồi bước ra khỏi cổng lớn.
Ánh nắng tháng Năm rực rỡ chói lòa khiến anh phải nhắm mắt lại một lúc lâu.
Từ đêm qua đến giờ, anh đã hơn mười mấy tiếng chưa thấy mặt trời. Ánh dương đối với công nhân mỏ than mà nói, luôn mang một cảm giác thân quen mà xa lạ.
Anh mở mắt, hít một hơi thật sâu. Anh thật sự muốn hút cả bầu không khí tươi mới và ánh nắng vàng rực ấy vào trong lá phổi đã đầy bụi than của mình!
Anh nhìn thấy, núi xa đã phủ một màu xanh biếc. Trên sườn đá đối diện, hoa dại nở đủ sắc màu. Đây là một mùa tuyệt đẹp — xuân sắp tàn, mà cái nóng oi bức của mùa hạ vẫn chưa tới.
Thiếu Bình châm hai điếu thuốc nối nhau, hút lấy hút để, rồi quay về ký túc xá.
Trong ký túc xá ngoài anh ra giờ chỉ còn lại năm người. Bốn người kia, ba thì lén về nhà bị mỏ xóa tên, một thì chạy chọt được điều về huyện nhà. Như vậy, ký túc rộng rãi hẳn ra, đồ đạc và rương hòm của mọi người đều đặt lên bốn chiếc giường trống đó.
Ký túc xá bừa bộn không chịu nổi. Không ai xếp chăn. Trên bậu cửa sổ bày bừa đồ đánh răng, cốc uống nước và bát đũa chưa rửa của mọi người. Giữa hang có một sợi dây sắt treo lơ lửng mấy bộ quần áo bẩn bốc mùi. Mấy ô kính cửa sổ bị vỡ toác như hình pháo hoa, hộp xà phòng và chậu rửa đầy nước bẩn để ngay dưới chân. Dưới gầm giường nhét giày tất và mấy cái chai rượu rỗng. Điểm sáng duy nhất là những bức ảnh nữ minh tinh điện ảnh dán đầu giường mỗi người.
Thiếu Bình giờ đã có một bộ chăn chiếu đẹp nhất cả phòng. Anh còn mua một cái màn đơn, từ mấy tháng trước đã dựng lên — tuy bây giờ chưa có muỗi, anh chỉ muốn tạo một không gian riêng, để có thể nằm trong đó đọc sách không bị ai làm phiền. Ngoài ra, anh còn mua một đôi giày da mới. Anh da là biểu tượng của người có công việc; mà đi vào cũng thật sự có khí thế!
Thiếu Bình quay lại nơi ở bừa bộn này, thấy mấy người còn lại đều đang nằm trên giường. Anh biết, tâm trạng mọi người không tốt. Hôm nay lĩnh lương, ai nấy chẳng lĩnh được bao nhiêu. Tổ trưởng Lôi tuy nói năng thô lỗ, nhưng nói đúng: chui vào hầm tối nhiều thì tiền nhiều; không chui thì chẳng có một cọng lông!
Trong thời khắc như thế này, cảm giác đầy đủ do lao động mang lại và cảm giác trống rỗng do không lao động đem đến, tàn nhẫn phản chiếu lẫn nhau trong căn nhà hang này.
Để không khiến bạn cùng phòng khó chịu, Thiếu Bình cố kìm nén niềm vui, lặng lẽ, thậm chí cố tình tỏ ra khiêm nhường mà chui vào chiếc màn của mình. Chiếc màn ngăn cách anh với những người khác thành hai thế giới.
Anh vừa nằm xuống không lâu, đã nghe thấy người phía trước nói: “Tôn Thiếu Bình, anh có muốn cái rương của tôi không?”
Thiếu Bình lập tức hiểu ra, gã này đã cạn tiền, định bán rương đi.
Anh đang cần một cái rương — mấy người này rõ ràng biết anh thiếu gì. Anh vén màn ra hỏi: “Bao nhiêu tiền?”
“Đương nhiên, nếu ở Hoàng Nguyên thì ít nhất cũng phải ba mươi lăm tệ. Nhưng ở đây không nói vậy, gỗ rẻ, hai mươi tệ thôi.”
Thiếu Bình chẳng nói chẳng rằng, nhảy xuống giường, móc ra hai mươi tệ đưa thẳng tay cho hắn, rồi vác cái rương gỗ lớn có viền đồng sáng loáng ấy về đầu giường mình. Lúc vác rương, người kia thuận tiện hỏi thêm: “Tôi có cái áo xanh vải tê-ca, cậu có muốn không? Bố tôi đi công tác ở Thượng Hải mua về đấy, định để cưới vợ mặc…”
Thiếu Bình biết, tên này chỉ lĩnh được có mười một tệ tiền lương, đến tiền ăn tháng này còn không đủ. Cái áo tê-ca ấy là đồ tốt nhất của hắn, mà giờ vì túng thiếu đến mức không còn nghĩ tới thể diện, đành phải bán đi.
“Bao nhiêu tiền?”
“Giá gốc hai mươi lăm. Tôi cũng mới mặc được mấy ngày, cậu đưa mười tám là được!”
Thiếu Bình chủ động đưa thêm hai tệ, rồi gấp chiếc áo thời thượng ấy bỏ vào cái rương mới mua.
Lúc này, một người khác cũng đang túng quẫn chỉ vào chiếc đồng hồ đeo tay hiệu “Bướm” trên cổ tay, hỏi: “Cậu có muốn cái đồng hồ này không?”
Thiếu Bình sững người.
Những người cùng phòng khác cũng lần lượt hỏi anh có muốn mua món đồ nào đó của họ không — gần như đều là những thứ quý giá nhất của mỗi người.
Tất cả những món đồ này đều nằm trong kế hoạch mua sắm của Thiếu Bình. Lúc này, khi những người kia đem bán rẻ đúng những thứ anh cần, anh lại có chút không nỡ. Nhưng anh cũng nhận ra, họ đều thật lòng muốn bán đồ, để giải quyết nhu cầu ăn uống cơ bản. Từ vẻ mặt của họ, Thiếu Bình thấy nếu mình mua đồ của họ, trái lại là đang giúp họ vượt qua khó khăn!
Thiếu Bình đành mang theo tâm trạng phức tạp, mua hết những món họ muốn bán. Trong thoáng chốc, đồng hồ, rương gỗ và đủ loại quần áo thời thượng anh đều có đủ; cộng thêm đôi giày da và màn tuyn sẵn có, lập tức tạo nên một khí thế đường hoàng trong căn nhà hang này. Đến lúc này, những người khác cũng dẹp bỏ dáng vẻ ưu việt mà chức vụ cha mẹ họ từng ban cho, thậm chí mang theo vẻ tự ti đầy tủi thẹn, coi anh là “người có tiếng nói” trong phòng.
Chỉ có lao động mới khiến con người trở nên mạnh mẽ trong cuộc sống. Dù là ai, cuối cùng vẫn sẽ tôn trọng những người lao động dùng đôi tay tạo ra cuộc sống. Đối với những người này, Tôn Thiếu Bình đã dạy họ một bài học vô cùng quan trọng trong đời — phải đối mặt với lao động như thế nào, đó là đề bài cơ bản nhất của cuộc sống.
Thật khó tin! Mới nửa năm trước khi vừa đến mỏ than, anh và những người này còn khác biệt biết bao. Nay, cuộc sống đã thẳng thừng đổi ngược vị trí của họ.
Đúng vậy, Tôn Thiếu Bình đã “chiếm đoạt” tài sản của những người này bằng chính sức lao động. Anh trở thành kẻ chinh phục. Tuy đây là sự chinh phục hòa bình và chính đáng, nhưng nó còn khắc nghiệt hơn cả chiến tranh; kẻ bị chinh phục không chỉ mất tài sản, mà còn bị chiếm lĩnh cả tinh thần. Muốn được giải thoát, con đường duy nhất chính là dấn thân vào lao động.
Trong những ngày sau đó, hai ba người trong số họ bắt đầu đi làm lại… Tóm lại, hôm đó Tôn Thiếu Bình đã trở thành thủ lĩnh trong căn phòng này. Anh chỉ cần ho một tiếng, người khác cũng sẽ chăm chú lắng nghe, như thể trong đó ẩn chứa điều gì huyền diệu.
Không cần nói, hôm đó tâm trạng anh cũng đặc biệt phấn chấn. Anh dứt khoát tận dụng chút thời gian buổi chiều để đi dạo lên núi đối diện. Cho đến bây giờ, anh vẫn chưa có dịp đi dạo quanh khu vực mỏ. Từ hôm nay trở đi, anh lại chuyển sang ca đêm mười hai giờ, sau khi đi dạo một vòng, có thể trực tiếp xuống hầm.
Tôn Thiếu Bình ra đến quảng trường trước khu mỏ, thấy nơi này lúc nào cũng đông đúc nhộn nhịp. Công nhân độc thân sau khi tan ca bưng tô cơm lớn, ngồi xổm trên gờ xi măng ngoài nhà ăn tổ hai, cúi nhìn xuống quảng trường nhỏ phía dưới. Một số công nhân nghỉ ca thì ngồi xổm lơ ngơ xung quanh, không rõ đang xem gì.
Những người sống lâu trong hầm lò đều thấy mọi thứ trên mặt đất thật thú vị. Nếu từ tòa nhà chính khu mỏ có một nữ cán bộ đi ra, cả quảng trường lập tức dấy lên một trận náo động im lặng. Trong thế giới mà phụ nữ hiếm như sao mai này, sự xuất hiện của họ rực rỡ như mặt trời…
Thiếu Bình đi xuống một con dốc ở phía nam quảng trường, tới đáy khe. Trên một gò đất nhỏ ở đáy khe chính là câu lạc bộ công nhân mỏ. Tối nào ở đây cũng chiếu phim, thường chật kín người. Sân bóng có đèn ở ngay trước câu lạc bộ. Đây là khu văn hóa giải trí của toàn mỏ. Tuy nhiên, ban ngày nơi này lại khá yên tĩnh.
Từ câu lạc bộ lại xuống thêm một con dốc nhỏ nữa là đến bờ con sông nhỏ. Con sông này gọi là Hắc Thủy. Tên gọi đúng với thực chất, nước chảy quanh năm đều đen kịt (e rằng đầu nguồn của nó cũng chẳng trong trẻo như gương đâu).
Đối với thợ mỏ, sông Hắc Thủy vẫn rất quyến rũ. Nó như một cô gái da đen đang ngân nga khúc tình ca dịu dàng, con người bước đến bên dòng sông liền cảm thấy nhẹ nhõm như trút bỏ gánh nặng.
Hai bên bờ sông là vườn rau của nông dân quanh vùng và vài cây dương liễu. Giờ đây, dưới ánh nắng tháng năm, cành lá xanh mướt sáng bóng. Có một cây liễu già không biết từ bao giờ đổ ngang xuống sông, đầu bên kia tựa lên bờ đối diện. Người ta đã chặt hết cành lớn của cây, thân cây liền trở thành một cây cầu độc mộc bắc ngang sông. Đây là một cây cầu sống, trên thân nó mọc ra rất nhiều chồi non xanh mướt.
Thiếu Bình qua cây cầu này, bắt đầu leo lên ngọn núi đối diện. Núi không cao, nhưng đường khá dốc. Ngọn núi nhỏ này là công viên tự nhiên của khu mỏ, vào ngày nghỉ, mọi người đều thích lên đây đi dạo.
Đây là lần đầu tiên anh leo núi này. Khi lên đến nền đất bằng trên đỉnh, anh mới phát hiện nơi này quả thực rất yên tĩnh. Phía xa là một khu rừng nhỏ. Trên nền đất bằng mọc đầy cỏ xanh mượt như nhung, điểm xuyết những loài hoa dại không tên. Bướm đôi bướm cặp bay lượn nhịp nhàng giữa cỏ hoa.
Anh ngồi xuống thảm cỏ, ngước nhìn sang phía đối diện, toàn cảnh khu mỏ Đại Nhai Loan liền hiện ra rõ mồn một trước mắt. Anh vừa kinh ngạc vừa phấn khích phát hiện, khu mỏ của họ lại hùng vĩ đến vậy! Từ đông sang tây, khúc vịnh dài năm dặm chen chúc đủ loại công trình. Núi than cao như núi, tòa nhà sàng tuyển sừng sững như đại điện; xe lửa phụt khói trắng, rền vang chạy qua ba tầng nền…
Anh xuất thần nhìn thế giới mà mình đang sống, trong lòng không khỏi sinh ra nhiều cảm khái. Anh biết, người ngoài rất ít người hiểu rõ tình hình ở thế giới này. Họ càng khinh thường những người sống trong thế giới này. Phải, người ta gọi họ là “mọi than”, “tóc than”. Có phụ nữ thà lấy một nông dân cũng không muốn lấy người như họ.
Anh bỗng nhớ tới Điền Hiểu Hà.
Trước khi rời Hoàng Nguyên, Hiểu Hà đã lên tỉnh thành. Họ đã xa nhau hơn nửa năm rồi. Đến tháng thứ ba sau khi anh vào mỏ, anh mới viết cho cô một bức thư — trước đó, tất cả mọi thứ của anh đều đang rối bời, chẳng còn lòng dạ nào để nghĩ đến chuyện khác. Từ thư hồi âm của Hiểu Hà, anh biết cô đã nhanh chóng thích nghi và thuận lợi trong công việc. Anh biết cô sẽ sớm phát huy tài năng, trở thành nhân vật quan trọng của tòa báo tỉnh. Nhưng điều anh quan tâm nhất vẫn là thái độ của cô đối với mình.
Từ bức thư đó, Hiểu Hà vẫn đầy tình cảm như xưa. Anh thậm chí cảm nhận được những dấu chấm than và ba chấm sau mỗi câu chữ ẩn chứa biết bao thâm tình.
Những bức thư sau cũng đều như vậy.
Vì cô thường ra ngoài lấy tin nên nửa năm qua họ không viết thư nhiều như các đôi tình nhân khác, nhưng mấy bức đó đối với anh đã là quá đủ. Trong bóng tối hầm lò, ở nơi đào than sâu nhất, anh thường nhắm mắt lại lặng lẽ đọc lại những lời ngọt ngào trong thư. Anh vô cùng tự hào trong lòng: những người xung quanh nằm mơ cũng không ngờ rằng, anh, một “mọi than”, bạn gái lại là phóng viên của tờ báo tỉnh! Nếu anh nói thật chuyện này ra, e rằng chẳng ai tin nổi. Công nhân mỏ còn khó lấy được cả phụ nữ không biết chữ, lại có nữ phóng viên tỉnh yêu anh! Khoác lác đấy!
Có lúc, ngay cả anh cũng thấy không tin nổi đó là thật, luôn cảm thấy đây là một giấc mộng.
Nghĩ cho kỹ, có lẽ đây đúng là một giấc mộng!
Phải, mộng tưởng. Một thợ mỏ làm dưới hầm mà muốn sống chung với một nữ phóng viên tỉnh thành? Nếu không phải mơ thì là gì! Dựa vào nhiệt huyết của tuổi trẻ, yêu nhau, viết thư, nói những lời lãng mạn và đầy thi vị thì có thể, nhưng sau này thật sự kết hôn, lập gia đình, sinh con đẻ cái, thì lại là chuyện khác rồi!
Ôi, suy cho cùng, mối quan hệ giữa anh và Hiểu Hà có lẽ sẽ kết thúc bằng bi kịch. Kết luận bi quan này thực ra đã luôn chôn sâu trong đáy lòng anh. Điều đáng buồn là: bi kịch thường bắt đầu bằng hài kịch. Hài kịch đang phát triển, nhân vật chính mặt mày rạng rỡ, chìm đắm trong giấc mộng rực rỡ.
Nhưng đột nhiên…
Tôn Thiếu Bình không muốn nghĩ tiếp nữa, tâm trạng anh trở nên u uất.
Mặt trời đã lặn. Mặt đất và tâm trạng của anh hòa vào nhau thành một màu vàng xẩm.
Anh nhìn chiếc đồng hồ “Bướm” vừa mua trên cổ tay, kim giờ chỉ đúng tám giờ.
Trong ánh chiều tà mờ mịt, anh đi xuống núi, lại lang thang ở mấy nơi khác rất lâu rồi mới quay về khu mỏ — dù thế nào, mười hai giờ, anh cũng phải đúng giờ chui vào cái “miệng đen” đó để xuống hầm…