Chương 27
Chương 27
Tiêu Giới Tử không động đậy.
Ngay khoảnh khắc lưỡi dao rời khỏi mặt, cô đột ngột mở mắt.
Quả nhiên, Giang Hồng Chúc đang nắm chuôi dao, mũi dao hướng xuống dưới, định đâm xuống, bỗng thấy cô mở mắt liền ngây người.
Tiêu Giới Tử nắm lấy khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, nhanh chóng nghiêng đầu sang một bên, tránh khỏi hướng mũi dao đâm xuống. Đồng thời, cô chống hai tay bật người dậy, ngay lập tức xoay chuyển thân mình, co gối đạp một cú mạnh vào bụng Giang Hồng Chúc.
Giang Hồng Chúc bị đá văng ra xa, lưng đập mạnh vào bàn tròn.
Bàn là đồ cũ, vốn đã mục nát, bị va chạm mạnh liền nghiêng đổ, nến, vải vụn, bát đũa trên bàn đổ ụp xuống, rơi thẳng lên người Giang Hồng Chúc.
Tiêu Giới Tử ngồi bật dậy, chửi thẳng: “Tôi cho cô mặt mũi rồi đúng không?”
Vẫn chưa đủ, cô chộp lấy mọi thứ trong tầm tay mà ném về phía Giang Hồng Chúc: chăn, gối, mền, táo, ổ cắm điện, ấm đun nước...
Trong ấm nước còn nửa bình nước, nước đã lạnh ngắt từ lâu. Đúng lúc, Giang Hồng Chúc đang né trái né phải, bị nước lạnh dội đầy đầu và mặt, rùng mình một cái, tỉnh táo hẳn ra.
Cô ta ngơ ngác nhìn Tiêu Giới Tử, run rẩy co lại, trông có vẻ hoang mang.
Tiêu Giới Tử không bị lừa, hét lên: “Tôi đối xử với bà không tốt sao? Nuôi chó còn biết bảo vệ tôi, bà thừa lúc tôi ngủ, cầm dao đến đâm tôi à? Ở yên đấy, ai thích phục vụ bà thì người đó đến mà phục vụ!”
Cô vội vàng đi giày, chộp lấy áo bông và ra ngoài, lờ mờ nghe thấy tiếng Giang Hồng Chúc kêu thảm thiết gọi tên mình từ phía sau, nhưng cô tuyệt nhiên không quay đầu lại.
Khi đóng sầm cửa, cô không quên lấy sợi xích từ trên bậu cửa sổ, quấn vài vòng quanh cửa rồi khóa chặt lại.
Cứ ở yên đấy mà suy nghĩ đi!
***
Tiêu Giới Tử giận dữ, bước phăm phăm ra khỏi sân, suýt nữa ngã nhào vì giẫm lên dây giày. Lúc đó cô mới nhận ra rằng vừa nãy vội quá, đi giày mà chưa kịp buộc dây.
Cô cúi xuống buộc chặt dây giày, rồi chạy thẳng tới chiếc xe bán tải đỗ ngoài cổng, nghiến răng nghiến lợi mở cửa, hậm hực ném mình vào ghế lái.
Cuộc sống này thật không thể chịu nổi nữa, ai muốn sống thì cứ sống đi.
Cô giận dữ một lúc, rồi nhìn ra ngoài cửa sổ.
Lúc đó là hoàng hôn, trời đã gần tối. Hóa ra cô đã ngủ gần cả ngày.
Tiểu viện nằm ở vùng ngoại ô, gần đồng cỏ, xa xa có núi, nhưng núi ở Nội Mông không cao vút như ở Tây Bắc. Đa số các ngọn núi ở đây trông như những ngọn đồi đất, giống như những chiếc bánh mì lớn bị ép bẹp xuống nhưng vẫn xốp và mềm mại, tô điểm cho ranh giới phẳng phiu giữa trời và đất bằng vài nét cong mềm mại.
Hoàng hôn hôm nay thật đẹp, khung cảnh xa gần đều được phủ lên những gam màu cam đỏ, vàng óng, vàng rực. Chân trời có vài đám mây mỏng trôi nhẹ trông hệt như một nửa cánh bướm, cả cảnh tượng này rất giống với miếng mã não vân xoắn mà Giang Hồng Chúc sưu tầm.
Ở trong thế giới đá lâu ngày đôi khi nhìn hiện thực cũng có chút mơ hồ, cảm giác như cả trời đất đều là một khối đá lớn. Được cảnh đẹp chữa lành, chẳng phải là cách ta rút năng lượng từ khối “đá khổng lồ” của thiên nhiên đó sao?
Ngày xưa có một người tên Trang Tử, chắc hẳn cũng nuôi đá, và trong bụng ông ta lại là một con bướm. Thế nên sau khi mơ hóa thành bướm, ông tỉnh dậy không còn phân biệt được thực tại là mơ hay mơ là thực, không rõ mình là người hay là bướm.
Mang thai, mang thai... rốt cuộc là cô đã mang thai khối đá trong kia, hay khối đá đó đã “mang thai” cô trong thế giới hiện thực này?
Tiêu Giới Tử dần bình tĩnh lại.
Nhớ lại khi nãy, Giang Hồng Chúc đúng là phát điên, nhưng hành vi của mình cũng chẳng kém phần điên dại, quả thật gần mực thì đen.
Cô lẩm bẩm: “Sống như mụ đàn bà chanh chua…”
Sách nói rằng phụ nữ không nên dễ nổi giận, cáu kỉnh, vì như thế dễ sinh bệnh, phải luôn giữ cho mình thoải mái, tự coi mình là một bông hoa, sống đẹp đẽ và tao nhã.
Tiêu Giới Tử hạ thấp gương chiếu hậu trong xe. Nhìn vào gương, cô không khỏi kinh ngạc: tóc tai rối bời, ánh mắt hung tợn, mặt mày méo mó vì giận dữ.
Cô từ từ dùng tay vuốt lại mái tóc.
Thế này thì không được. Giang Hồng Chúc điên loạn, mình cũng bị cuốn theo, thế còn đâu nhịp sống của bản thân nữa? Tính khí của mình vẫn chưa đủ ổn định, cần phải đi mua một chậu hoa về nuôi để rèn luyện tâm trí.
Tiêu Giới Tử nổ máy xe. Khi chiếc xe bắt đầu lăn bánh, cô liếc nhìn lại tiểu viện một lần nữa.
Giang Hồng Chúc, cứ để bà ta ở đấy suy ngẫm, không thì chẳng bao giờ biết rút kinh nghiệm.
***
Trần Tông trở về phòng.
Nhan Như Ngọc lại đang “tập yoga” trên giường. Rõ ràng đã nghe thấy anh trở về, nhưng chỉ khẽ mở mắt rồi lại nhắm lại, giả vờ như không biết gì. Hiển nhiên, anh ta vẫn còn bực chuyện Trần Tông “giấu lời”.
Trần Tông không buồn để ý, bước thẳng lên giường nằm xuống, đột nhiên cảm thấy thiếu thiếu gì đó: những ngọn nến quanh giường đã tắt hết, không còn làn hương thơm mờ ảo bao phủ khiến anh cảm thấy không quen.
Anh cầm bật lửa lên, đốt lại bốn, năm ngọn nến. Khi nằm xuống lần nữa, anh còn khoanh tay trước bụng, dáng vẻ như một người đã chán sống.
Những ngọn nến thơm này thật kỳ diệu, càng cháy, làn hương càng như cúi rạp đầu, nhẹ nhàng tiến vào anh, khiến anh cảm thấy mình như một hồn ma lâu năm, đang chầm chậm hút dần dương khí của thế gian.
Trong khoảnh khắc đó, bầu không khí trong phòng trở nên kỳ lạ đến cực điểm: giữa thế giới xã hội chủ nghĩa sáng ngời, một người đang hút dương khí, một người thì đang tìm cách mang thai.
Trần Tông muốn suy nghĩ lại những chuyện đã nói trong nửa ngày qua, nhưng lại thấy phiền phức. Có lẽ ông Trần Thiên Hải đã hạ độc anh, hoặc cũng có thể không. Ông già này thật lạ lùng, vừa nghiêm nghị vừa đáng yêu, làm gì cũng không ai thấy lạ.
Biết vậy đã chẳng tìm đến ông nội, không tìm thì vẫn còn là người bình thường, vui vẻ vô lo. Tìm rồi thì không những mối quan hệ hiếm hoi giữa ông cháu không giữ được, mà sự vô tư vô lo của anh cũng tan biến luôn — hồi nhỏ, câu chuyện Hồ Lô Biến đã dạy anh rằng, tìm ông nội chẳng bao giờ mang lại điều tốt lành, chắc chắn sẽ gặp yêu ma quỷ quái.
Càng nghĩ càng thấy phiền, anh quay sang Nhan Như Ngọc để trút giận: “Có mang thai được gì chưa?”
Nhan Như Ngọc bật mở mắt, ngồi dậy: “Trần huynh, chuyện này mà anh cũng biết rồi à?”
Anh ta than thở với Trần Tông: “Đúng là công việc không phải của con người. Bảo tôi phải tập trung, nói cái gì mà người với đá giao tiếp, điều kiện tiên quyết là tâm phải tĩnh. Anh bảo sao mà tĩnh được? Bên ngoài ồn ào thế cơ mà!”
Trần Tông thầm nghĩ: Bên ngoài ồn ào hay không chưa rõ, nhưng chắc chắn trong lòng cậu thì nhiều tiếng ồn lắm. Tôi chỉ nói có một câu mà cậu đã trả lời cả tràng dài thế kia.
Than thở xong, Nhan Như Ngọc mới phản ứng lại: “Trần huynh, ngay cả chuyện nuôi đá anh cũng biết, vậy là anh sắp vào hội rồi hả? Anh đã làm gì rồi?”
Trần Tông phẩy tay trước làn hương đang lượn lờ trước mặt: “Cũng chẳng làm gì nhiều. Đêm hôm đó có một người phụ nữ mặc đồ diễn làm dọa Thọ gia. Trùng hợp là hôm qua tôi lái xe ra ngoài thì gặp cô ta, nên nghĩ phải thể hiện chút bản lĩnh, bắt cô ta lại…”
Anh chỉ vào vết thương quấn quanh cổ: “Kết quả thế nào, cậu cũng thấy rồi. Tam lão nói tôi bị ‘điểm hương’, họ thấy áy náy nên đã nói chuyện với tôi thêm một lúc. Trong lúc trò chuyện, chắc họ thấy tôi thật thà, tử tế, là người có thể bồi dưỡng, nên hỏi tôi có muốn vào hội không.”
Nói đến đây, anh thở dài: “Tôi vẫn chưa quyết định, vì vào hội… chẳng có nhiều lợi ích lắm.”
Nhan Như Ngọc không nói gì, chỉ nhìn anh chằm chằm, càng nhìn càng cười, nụ cười khiến Trần Tông nổi da gà.
Cậu ta nói: “Trần huynh, anh càng ngày càng nhạt nhẽo rồi. ‘Nhân Thạch Hội’ thế nào, anh nghĩ tôi không biết à? Khắp nơi toàn là sói, họ để mắt đến anh vì anh thật thà và tử tế sao?”
Trần Tông hỏi ngược lại: “Nhân Thạch Hội thì thế nào?”
Nhan Như Ngọc thấy nhạc yoga quá ồn, tắt đi rồi ngồi khoanh chân trước mặt anh: “Có câu này anh nghe bao giờ chưa, ‘Nhân Thạch Hội’ không chứa thuyền hỏng, khi loại bỏ kẻ yếu, họ thậm chí không thèm chớp mắt.”
Trần Tông cảm thấy bất an: “Kẻ yếu? Họ chỉ loại bỏ những kẻ phạm luật thôi chứ?”
Nhan Như Ngọc cười nhạt: “Anh bạn à, hội này chỉ có 99 thành viên thôi, điều đó vẫn chưa rõ sao? Hồi xưa những bang hội lớn có hàng nghìn, hàng vạn người, như Cái Bang thì đệ tử rải khắp thiên hạ. Vậy tại sao ‘Nhân Thạch Hội’ chỉ có 99 người? Phải chăng người chơi đá ít? Tất nhiên là không, hội chỉ chọn những người đứng đầu, giỏi nhất. Nếu anh không đủ khả năng, anh sẽ bị loại bỏ, nhường chỗ cho người mới. Anh nghĩ họ sẽ nương tay với anh, cùng anh tiến bước sao? Những kẻ đứng vững ở đây đều là những người tàn nhẫn.”
Anh ta nhấn mạnh: “Không có ai là không tàn nhẫn cả! Trong phòng của Thọ gia, anh đã thấy người mù đó chưa? Gã người Nhật ấy?”
Trần Tông gật đầu: “Có thấy rồi… nhưng chỉ là một người mù, tàn nhẫn ở chỗ nào?”
Nhan Như Ngọc lườm anh: “Chắc anh cũng biết rồi, nuôi đá coi trọng ba yếu tố: tinh, khí, thần, mà ‘thần’ là yếu tố quan trọng nhất. Vị này đã đạt đến đỉnh cao của phương pháp nuôi dưỡng thần. Thực ra phương pháp này anh chắc cũng nghe qua, chỉ là không để tâm thôi.”
Trần Tông tò mò, không nhịn được mà ngồi dậy: “Phương pháp gì vậy?”
Nhan Như Ngọc đáp: “Bế mục dưỡng thần.”
Trần Tông sững sờ, tưởng mình nghe nhầm: “Gì cơ? Dưỡng thần kiểu gì?”
Nhan Như Ngọc gắt gỏng: “Chính là bế mục dưỡng thần! Từ đó về sau, hắn không bao giờ mở mắt nữa. Ban đầu có thể chưa thuần thục, gặp việc vẫn còn hé mắt, nhưng sau này thì nhắm chặt mãi mãi. Tôi nghe nói, đã mười bảy năm rồi hắn chưa mở mắt. Hồi trước ở Nhật, hắn tên gì đó tôi không rõ, nhưng giờ, mọi người gọi hắn là Dưỡng Thần Quân, hoặc kẻ mù.”
“Thấy không? Đó mới là gan dạ! Thật thà và tử tế, nói ra không thấy hổ thẹn à?”
Trần Tông hơi bất ngờ, điều này hoàn toàn khác với hình dung của anh về một hội đoàn đoàn kết: “Chỉ vì người ta yếu mà loại bỏ, không kéo tay giúp đỡ một chút sao? Vô tình quá.”
Nhan Như Ngọc nói: “Tuy tôi chẳng có tình cảm gì với hội này, nhưng Trần huynh, tôi phải nói thẳng với anh. Đòi hỏi tình nghĩa ở hội này, vậy anh đã làm gì cho họ?”
Anh ta giơ một ngón tay: “Thứ nhất, nhớ lấy, tham gia hội này, anh không phải đóng bất cứ hội phí nào. Thậm chí học phí đi học còn phải đóng. Anh chỉ nộp một viên đá, nếu bị loại, họ trả lại đá cho anh. Anh cũng chẳng phải thực hiện nghĩa vụ gì thường xuyên. Đại hội 20 năm mới tổ chức một lần, không muốn đến thì thôi, mà đến thì có người bao ăn ở và chi phí đi lại.”
Nói đến đây, anh ta giơ thêm một ngón tay nữa.
“Thứ hai, nghĩ lại xem hội đã cho anh những gì. Họ trao đổi làm ăn, giúp anh kết nối tài chính và nhân mạch, dạy anh cách chữa đá mà không thu học phí. Tuy không thể kéo dài tuổi thọ, nhưng anh nên biết rằng, từ xưa đến nay, trong hội có người chết già, người tự sát, nhưng chưa bao giờ có ai chết vì bệnh tật. Anh hỏi hội cần gì ở anh, tôi cũng không rõ. Tôi đoán, có lẽ giống như di sản văn hóa, đó là một sự truyền thừa, họ chỉ muốn giao lưu giữa người và đá không bị gián đoạn.”
“Vì vậy, tất nhiên là mạnh sống yếu chết, không làm được thì thay. Anh có thể nói rằng điều này không nhân đạo, nhưng sự thật rành rành trước mắt, ‘Nhân Thạch Hội’ tồn tại đến ngày nay chưa bao giờ suy yếu chính là vì nó luôn có dòng máu tươi mới nhất. 39, 69, 99 tại sao có thể giữ số mãi, là vì không thể thay thế được, ví dụ như số 69, khả năng làm việc dưới nước quá mạnh, muốn thay cũng không thay nổi.”
“Do đó, chuyện anh bắt được một cô gái diễn kịch, rồi bị thương, hội có thể sẽ cảm kích, có thể sẽ lo liệu tiền thuốc men cho anh, nhưng tuyệt đối sẽ không nhận anh vào hội vì chuyện đó. Nói anh trung thực, lương thiện thì lại càng vô lý. Trần huynh, cứng họng rồi đúng không, hay vẫn cố chấp không nói?”
Trần Tông cười, khuôn mặt đầy vẻ "đúng vậy, tôi không nói, anh có thể làm gì tôi chứ?".
Nhan Như Ngọc cũng cười: “Được thôi, đừng nói với tôi, tôi luôn có cách để biết mà.”
***
Chiều tối, Lương Thiền đến tìm Trần Tông, nói rằng ở A Khắc Sát có một chợ đêm cuối tuần, hai ngày nay đang mở, muốn kéo anh đi dạo cùng.
Trần Tông thấy lời mời này hơi kỳ lạ, nhưng vẫn đồng ý.
Một là trong lòng anh có chút phiền, thực sự muốn ra ngoài đi dạo; hai là sau khi Nhan Như Ngọc nói lời nặng nề với anh, ánh mắt anh ấy nhìn anh luôn giống như đang nhìn một gã tồi—có lẽ vì anh ấy đã kể cho Trần Tông nhiều chuyện nhưng Trần Tông lại không nói thật, khiến anh ấy thấy bị tổn thương—ánh mắt này, Trần Tông thật sự thấy khó chịu; ba là, Lương Thiền là một cô gái xinh đẹp và dễ thương, anh cũng không tìm được lý do gì để từ chối.
Lương Thiền cũng không còn cách nào, đây là việc mà Lương Thế Long giao phó, nói rằng ba trưởng lão đã chính thức mời Trần Tông vào hội, nhưng anh ấy cứ mập mờ, mãi không đưa ra câu trả lời, nên bảo Lương Thiền đi dò la ý tứ của anh, còn nhấn mạnh là “phải tình cờ một chút”, “không được làm lộ liễu quá”.
Không thể vào thẳng phòng người ta để dò ý, A Khắc Sát lại là một nơi nhỏ, Lương Thiền tìm mãi trên mạng mới kiếm được cái cớ là chợ đêm này.
...
Trần Tông vừa bước vào chợ đêm đã thấy quen mắt, dừng lại một lúc mới nhớ ra, anh đã từng đi qua con phố này, còn mua một món đồ làm từ than đá.
Hóa ra vào cuối tuần, hai đầu phố đều có cổng chặn, cấm xe cộ qua lại, còn con phố chính, vốn là đường xe đi, nay lại đầy những quầy hàng nhỏ đủ loại. Dù không náo nhiệt như các điểm du lịch lớn nhưng cũng khá đặc trưng địa phương.
Chưa đi được bao lâu, Trần Tông bỗng phát hiện ra cửa hàng anh từng mua than đá đã bị cháy.
Có lẽ sợ ảnh hưởng đến cảnh quan nên phía trước cửa hàng được phủ một tấm bạt nhựa lớn nhưng góc cạnh để lộ ra bức tường cháy đen rõ ràng cho thấy chuyện gì đã xảy ra. Trần Tông hỏi thăm thì biết được ông chủ mấy ngày nay đều sống tại cửa hàng, có lẽ đêm qua đói bụng, nửa đêm dậy nấu ăn, không may xảy ra hỏa hoạn, ông chủ cũng bị thương và phải nhập viện.
Chuyện gì thế này, nghĩ lại Giang Hồng Chúc và Trần Thiên Hải, Trần Tông không khỏi buồn rầu.
Lương Thiền đi bên cạnh, trong lòng đầy thất vọng. Suốt quãng đường, cô ấy nói chuyện với Trần Tông đủ kiểu, khi thì bảo anh ăn vặt, khi thì kêu anh nhìn những thứ hay ho mới lạ, nhưng anh có vẻ không tập trung lắm—bình thường, là người khác rủ cô ra ngoài, dùng đủ chiêu trò để làm cô cười, còn giờ, cô cố gắng hết sức cũng không nhận được nụ cười nào.
Đứng trước một quầy bán đồ ăn vặt, Lương Thiền cuối cùng cũng không chịu nổi: “Anh có phải đang khó chịu với tôi không?”
Trần Tông ngạc nhiên: “Hả?”
Lương Thiền tủi thân: “Tôi nói với anh nhiều như vậy, anh trả lời thì có cũng như không, tôi còn kể chuyện cười nữa, mà anh không cười lấy một lần.”
Cô ấy còn kể chuyện cười ư? Trần Tông hoàn toàn không nhớ, có lẽ lúc đó anh đang mải nghĩ về chuyện ông chủ cửa hàng than đá.
Anh cảm thấy áy náy, vội vàng nở một nụ cười.
Không cười thì thôi, vừa cười một cái, Lương Thiền càng tức hơn: “Không muốn đi dạo thì nói thẳng, sao lại làm qua loa như thế, anh tự đi mà dạo, tôi không làm phiền nữa.”
Nói xong, cô quay đầu bỏ đi.
Trần Tông nhận ra mình đã làm phật lòng người khác, vội vàng đuổi theo, mới chạy được hai bước, đột nhiên dừng lại.
Anh nhìn thấy Tiêu Giới Tử.
Cô đứng ở phía không xa, tại một lối nhỏ thông với phố chính, ánh đèn chợ đêm vừa vặn chiếu sáng mép lối vào, cô chỉ đứng nửa người trong ánh sáng, nửa còn lại ẩn trong bóng tối, đang nhìn anh đầy ý tứ, khi ánh mắt họ chạm nhau, cô mỉm cười, ánh mắt khẽ ra hiệu về phía trong ngõ, rồi cô lùi vào bóng tối.
Rõ ràng là bảo anh đi qua đó.
Đây chính là người bên phía Giang Hồng Chúc. Trần Tông hít sâu một hơi, ngừng lại một lúc, rồi bước qua đám đông, đến gần lối nhỏ.
Đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy cô rõ ràng như vậy.
Cô đứng dựa vào tường, vẫn mặc chiếc áo dài bông kiểu áo khoác gió, đôi bốt dài đế dày, tròn mũi, thay chiếc mũ nồi trắng móc kim—cô quả thật rất thích đội mũ, gặp cô mấy lần đã thấy cô thay vài chiếc—trong tay còn ôm một chậu lan hồ điệp trắng.
Cô liếc mắt nhìn anh, có vẻ không hài lòng lắm với vẻ mặt của anh, hừ lạnh một tiếng: “Sao vậy? Đối với cô gái kia cười tươi như hoa, còn gặp ân nhân cứu mạng thì mặt mày như vậy? Không cười với tôi một cái à?”