Chương 16
Thời gian trôi qua vừa dài đằng đẵng lại vừa như vụt bay, chớp mắt đã đến mùa hè.
Đây là khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong năm ở cao nguyên Hoàng Thổ. Những dãy núi xa gần, các khe rãnh và lòng sông đan xen chằng chịt, màu xanh đã bắt đầu trở nên đậm dần. Ngô, cao lương, kê, hướng dương... phần lớn những loại cây cao đã mọc lên được hơn nửa. Các loại đậu thì đua nhau nở hoa: hoa đậu tương trắng như tuyết, hoa đậu leo vàng óng, hoa đậu cô ve hồng nhạt… nở rực rỡ trong đám lá xanh. Ngay cả chợ phiên Thạch Cát Tiết, vốn dĩ hoang vu tiêu điều, giờ đây cũng đã xuất hiện ít nhiều hoa quả rau xanh, khiến con đường đất bụi mù ấy thêm phần rực rỡ sắc màu.
Chỉ vài hôm nữa là đến “canh nhật” thứ ba sau tiết Hạ chí, tức là bắt đầu vào “sơ phục”. Ngay sau đó là Đại thử — mùa nóng nực nhất trong năm, khi mặt trời đã chiếu đến hoàng kinh 120°, như một chiếc chậu lửa úp ngược thiêu đốt mặt đất một cách vô tình.
Người thành phố đã mặc áo cộc mát mẻ. Đến trưa là cả đám trẻ con trần truồng ùa xuống ngâm mình trong sông Nguyên Tây.
Ngoại trừ những ngày có chợ phiên, còn lại rất hiếm khi tìm thấy cán bộ làm việc ở các cơ quan trong huyện. Mỗi sáng, họ đều vác cuốc sắt, đội nón rơm, lên núi ngoài thành để đắp ruộng bậc thang. Phong trào học tập Đại Trại trong nông nghiệp từng đợt lại lên cao trào. Mỗi đơn vị đều có chỉ tiêu khai hoang làm ruộng, không hoàn thành thì sẽ bị phê bình.
Buổi chiều, các cơ quan thường tổ chức học tập chính trị, mỗi tuần ít nhất chiếm đến bốn buổi chiều. Tạp chí Hồng Kỳ và báo Nhân Dân liên tục đăng các xã luận và bài viết ký tên “quan trọng”, yêu cầu mọi người phê phán sản xuất nhỏ, phê phán chủ nghĩa tư bản, phê phán đường lối “sửa đổi phản cách mạng” của Lưu Thiếu Kỳ và Lâm Bưu, hạn chế quyền tư sản, cảnh giác với nguyên tắc trao đổi hàng hóa làm xói mòn Đảng… Đồng thời yêu cầu các cấp cán bộ học tập lý luận chuyên chính vô sản, và còn đặc biệt đề xuất “kinh nghiệm Tân Hương”...
Toàn xã hội vẫn giữ một bầu không khí náo nhiệt sôi sục. Các “sự vật mới” liên tục xuất hiện. Trên báo chí thường xuyên đăng tin về một cựu quân nhân hay một sinh viên công nông binh nào đó, để hạn chế quyền tư sản mà đến tận những thôn làng nhỏ bé trên cao nguyên Hoàng Thổ làm nông dân. Mặc dù sau này những người đó đều như chim di cư bay đi mãi mãi không quay lại, nhưng lúc ấy quả thực đã trở thành điển hình để tuyên truyền cho “tình hình cách mạng tươi sáng”.
Trường trung học của huyện cũng không ngoại lệ. Ngoài việc mỗi ngày phải lao động nửa buổi, các lớp còn tổ chức nhóm học tập lãnh đạo theo kiểu "ba kết hợp" của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đoàn Thanh niên Cộng sản và tổ chức Hồng Vệ Binh cùng tồn tại. Cán bộ lãnh đạo, giáo viên và học sinh cùng nhau học các chương như Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên, v.v... để phê phán chủ nghĩa tư sản, chủ nghĩa xét lại và tư tưởng Khổng - Mạnh. Đồng thời, nhà trường còn tổ chức nhiều "đội văn nghệ tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông", đi đến các công xã, đại đội để biểu diễn tuyên truyền...
Nhưng đối với hàng triệu nông dân trên cao nguyên Hoàng Thổ mà nói, điều họ phải đối mặt mỗi ngày lại là một kẻ thù thực sự mạnh mẽ khác: nạn đói. Sản lượng lương thực của mỗi đội sản xuất sau khi “ưu tiên” cho nhà nước và tập thể, đến tay xã viên thì thực sự chẳng còn là bao. Thử nghĩ xem, một người nông dân trưởng thành cả năm lăn lộn ngoài đồng, mà trung bình mỗi ngày còn không được một cân khẩu phần, thì làm sao mà sống nổi? Có những nơi còn đáng thương hơn, khẩu phần cả năm của một người chỉ có vài chục cân, người ta chỉ còn cách ra ngoài đi ăn xin mà sống...
Tôn Thiếu Bình khó khăn lắm mới gắng gượng qua được nửa học kỳ ở trường cấp ba huyện. Học kỳ hai vừa mới bắt đầu không bao lâu, tình cảnh của cậu vẫn chẳng thay đổi gì. Phần lớn thời gian, cậu vẫn phải gặm bánh bột cao lương đen, thậm chí không đủ tiền để ăn thêm lấy một món rau hạng ba. Những ngày đầu học kỳ trước, cậu đã từng mất niềm tin rằng mình có thể học hết hai năm cấp ba. Cậu từng nghĩ: học nửa năm cấp ba rồi về quê làm kế toán cho đội sản xuất, cũng tạm gọi là tạm ổn rồi, cần gì phải cố sống cố chết chịu khổ học hành như vậy?
Thế nhưng học kỳ này bắt đầu, cậu lại đến trường. Cậu vẫn không đành lòng bỏ học giữa chừng. Ngoài ra, còn có một lý do nho nhỏ không tiện nói ra khiến cậu không muốn rời xa ngôi trường này — đó chính là cô gái mà ta đã nhắc đến trước đây: Hà Hồng Mai.
Tôn Thiếu Bình và Hà Hồng Mai trong nửa năm qua đã trở nên khá thân thiết, hai người qua lại thường xuyên, cũng không còn câu nệ gì nữa. Họ không chỉ mượn sách cho nhau đọc, mà còn tranh thủ lúc rảnh trò chuyện. Ở độ tuổi nhạy cảm này, không chỉ riêng Tôn Thiếu Bình và Hà Hồng Mai, mà những nam nữ thanh niên cùng trang lứa với họ cũng đã vượt qua giai đoạn "không tiếp xúc", bắt đầu mong muốn được người khác giới chú ý, và thậm chí nghĩ đến chuyện tìm một người “đặc biệt”. Trạng thái này có thể còn cách xa tình yêu thực sự, nhưng với thanh thiếu niên ở độ tuổi này, việc giao lưu nam nữ sớm như vậy là điều không nên, bởi nó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc học và cả sức khỏe.
Tuy nhiên, trường cấp ba thời bấy giờ vô cùng thiếu quy củ, việc học hành gần như là chuyện có cũng được, không có cũng chẳng sao. Suốt ngày chỉ là các hoạt động xã hội ồn ào náo nhiệt. Học sinh hầu như không chịu áp lực học tập nào — dù sao thì sau hai năm tốt nghiệp, ai cũng phải quay về nhà cả thôi. Hơn nữa, trong các hoạt động đó lại có nhiều cơ hội tiếp xúc, nên chuyện tình cảm nam nữ là điều khó tránh khỏi. Trong hoàn cảnh xã hội như hiện tại, ở độ tuổi mười bảy, mười tám, ai có thể nhìn thấu được tương lai? Đừng nói là họ, ngay cả một số lão cách mạng từng trải, vào thời điểm ấy cũng chưa chắc đã thật sự tỉnh táo — không phải nhiều người trong số họ cũng chỉ đang sống qua ngày đó sao?
Tôn Thiếu Bình tuy nghèo đói, quần áo rách rưới, không thể đứng ngang hàng với người khác, nhưng có một cô bạn học thân thiết cùng qua lại, cũng khiến cuộc sống của cậu thêm phần sinh động. Cậu dần trở nên hoạt bát hơn trong lớp: kể chuyện cho bạn bè nghe trong ký túc xá; khi thảo luận học tập thì dám phát biểu mạnh dạn, nói năng lưu loát, rành rọt, có lý có lẽ. Nếu hôm nào không đói quá, cậu còn thích ra sân bóng rổ hay bàn bóng bàn trổ tài. Trong kỳ thi đấu bóng bàn toàn trường học kỳ trước, cậu thậm chí đã giành chức vô địch, được nhà trường thưởng cho một bộ Tuyển tập Mao Trạch Đông và một tờ giấy khen — khiến cậu vui đến mấy ngày không yên.
Nhờ những biểu hiện đó, dần dần cậu cũng trở thành một nhân vật có tiếng trong lớp. Khi bầu cán bộ lớp vào giữa học kỳ, cậu được chọn làm “cán sự lao động”. Lúc đầu cậu rất bực với chức vụ này, cảm thấy như bị xem thường. Nhưng sau đó lại nghĩ, bây giờ là thời đại "mở cửa giáo dục", cán sự lao động cũng có nhiều việc phải làm, thế là dần dần cũng vui vẻ chấp nhận gánh vác trách nhiệm này.
“Cán sự lao động” nghe thì chẳng hay ho gì, nhưng “quyền lực” thì thực sự không nhỏ! Mỗi ngày lớp học lao động nửa buổi, trong nửa buổi đó, Tôn Thiếu Bình chính là người “nổi bật” nhất lớp. Cậu phân công công việc cho từng người, giao nhiệm vụ, tự mình lên trường nhận dụng cụ lao động rồi phân phát cho mọi người. Mỗi lần, cậu luôn giữ lại dụng cụ tốt nhất cho Hạ Hồng Mai. Ban đầu, chẳng ai phát hiện ra cán sự lao động đang “thiên vị vì tình riêng”. Nhưng rồi một ngày, cô gái tập tễnh Hầu Ngọc Anh đã phát hiện ra bí mật này...
Hôm đó lên núi sửa ruộng bậc thang, sau khi phát xong cuốc xẻng, Hầu Ngọc Anh bĩu môi, tức tối ném luôn cái xẻng vừa được phát xuống trước mặt Tôn Thiếu Bình, nói:
“Tôi không dùng cái đầu trọc này đâu!”
Thiếu Bình thấy cô ta làm mất mặt mình trước bao người, liền không khách sáo đáp lại:
“Xẻng nào cũng như nhau, nếu cậu không thích thì mang xẻng nhà mình ra mà dùng!”
“Ai bảo xẻng nào cũng như nhau? Cậu thấy ai hợp mắt thì đưa xẻng tốt cho người ta!”
“Tôi đưa xẻng tốt cho ai nào?”
“Cho người yêu cậu đấy!” — Hầu Ngọc Anh gào lên.
Cả lớp học sinh lập tức “ồ” lên cười rộ. Một số bạn còn quay phắt lại nhìn Hà Hồng Mai. Cô đỏ bừng mặt, vứt luôn cái xẻng trong tay, lấy tay che mặt bật khóc. Rồi cô quay người chạy thẳng về ký túc xá, không tham gia lao động nữa.
Hầu Ngọc Anh lảo đảo đi vào giữa đám đông, ngẩng đầu đầy đắc ý như vừa chiến thắng oanh liệt, mỉa mai nói:
“Kẻ trộm chưa đánh đã khai!”
Sự nhục nhã và tổn thương đó quá nghiêm trọng. Trong đầu Tôn Thiếu Bình chỉ còn ong ong một tiếng. Cậu ném phăng cái xẻng trong tay, giận dữ lao về phía Hầu Ngọc Anh, nhưng bị Kim Ba và Nhuận Sinh cùng thôn giữ lại. Trong lớp có mấy đứa học sinh nghịch ngợm chẳng quan tâm gì, chỉ “ào ào” hò hét cổ vũ. Mãi đến khi giáo viên chủ nhiệm tới, sự việc mới lắng xuống...
Từ sau hôm đó, “mối quan hệ” giữa Tôn Thiếu Bình và Hà Hồng Mai trở thành một bí mật công khai trong lớp. Điều này khiến họ không còn dám thường xuyên tiếp xúc như trước nữa. Cả hai đều cảm thấy xấu hổ, thậm chí không còn chào nhau nơi công cộng. Hơn nữa, do tuổi còn non nớt, trong lòng mỗi người còn âm thầm trách đối phương đã khiến mình rơi vào tình cảnh khó xử, đến nỗi cả hai đều mang chút oán hận lẫn nhau.
Cô gái què đạt được mục đích, cảm thấy mình sắp trở thành “anh hùng” trong lớp, giọng nói hằng ngày cao vút lên tám tông, tiếng cười ha ha cố ý phát ra như thể muốn cho Tôn Thiếu Bình và Hà Hồng Mai nghe rõ từng chút một.
Than ôi! Không ngờ mọi chuyện lại ầm ĩ đến mức này. Mặc dù không thể gọi là tình yêu — bởi thực chất giữa họ chưa có tình cảm nam nữ thực sự — mà chỉ là hai trái tim thiếu niên vì cùng một hoàn cảnh khốn khó mà lặng lẽ xích lại gần nhau, để tìm chút hơi ấm nơi cảm xúc. Thế mà lại diễn thành một vở bi kịch nho nhỏ như vậy.
Trong lòng cậu giờ đây ngổn ngang nỗi buồn. Dù nghiêm túc mà nói, chuyện này có lẽ chưa thể gọi là thất tình. Nhưng khi một sự an ủi tinh thần không còn nữa, nó sẽ mang đến biết bao phiền muộn. Đó chính là nỗi muộn phiền của tuổi trẻ. Hãy thử nghĩ đến nhà đại văn hào Goethe và hình ảnh tuổi trẻ của ông — Werther — ta sẽ thấy rằng, dù là quý tộc hay thường dân, thì trong chuyện này, ai cũng như nhau cả.
Lúc ấy, Tôn Thiếu Bình lại rơi vào nỗi thất vọng và nản lòng. Nếu ban đầu không có “quan hệ” với Hồng Mai, có lẽ cậu chỉ phải chịu đựng cơn đói về thể xác. Còn bây giờ, tinh thần cậu cũng rơi vào khủng hoảng — mà điều này còn đáng sợ hơn cả chuyện không có gì để ăn! Mỗi lần đến lấy hai cái bánh lương khô làm từ bột cao lương đen của mình, cậu không còn nhìn thấy bóng dáng đáng yêu của cô đâu nữa. Đôi mắt buồn đẹp kia, dẫu có đi ngang mặt cậu, cũng không còn khiến cậu xao xuyến như trước.
Mấy tháng sau đó, cậu chỉ biết cắn răng chịu đựng, mong từng ngày cho đến kỳ nghỉ... Mãi đến tuần trước khi kỳ nghỉ bắt đầu, cậu mới sực nhớ ra: mấy tháng trước Hà Hồng Mai có mượn của cậu một cuốn Khởi nghiệp sử, đến giờ vẫn chưa trả. Cuốn sách này là cậu mượn từ nhà văn hóa huyện, sắp nghỉ rồi, nếu cô không trả, cậu sẽ không thể đem sách về trả lại. Thế nhưng cậu lại không muốn đến hỏi xin. Trong lòng cậu có một sự giận dỗi khó tả. Cô ấy bây giờ có thể không nói chuyện với cậu, nhưng chẳng lẽ mượn sách cũng không trả?
Tuần cuối cùng, đến thứ Bảy, Hà Hồng Mai vẫn chưa trả sách. Cậu vẫn không đủ can đảm đi đòi. Đành lặng lẽ về nhà. Cậu mượn chiếc xe đạp của Kim Ba, chở chút chăn màn rách nát của mình về trước — vì thứ Ba tuần sau mới nghỉ, cậu có thể chui vào ổ của Kim Ba ngủ mấy đêm, đỡ phải mang chăn gối về sau cho nặng.
Về đến nhà, sáng Chủ Nhật cậu đi đốn một bó củi cho gia đình, kết quả là đôi giày cao su vàng rách nát sẵn có của cậu cũng chính thức “về hưu”. Cậu đành phải đi đôi giày tồi tàn của anh trai Thiếu An. Còn đôi tất không có gót vứt ở nhà, cha cậu bảo đợi đến mùa thu khi được chia ít len thì khâu lại phần gót; phần cổ tất vẫn còn mới, chưa thể vứt đi, cố gắng dùng thêm hai, ba mùa đông nữa vẫn được — vì một đôi tất mới bây giờ phải hơn hai đồng bạc cơ mà!
Chiều Chủ Nhật, cậu mang theo sáu cái bánh lương khô làm từ bột cao lương trộn khoai tây — không có cặp lồng đựng, chỉ gói tạm bằng mảnh vải hấp cũ kỹ, kẹp phía sau xe đạp, trở lại trường lúc trời nhá nhem tối.
Lúc đó, trường đang trong cảnh hỗn loạn trước kỳ nghỉ, người đến người đi, dọn dẹp chuyển đồ, nhốn nháo ầm ĩ, chẳng còn trật tự gì nữa.
Ngay trước cổng trường, cậu gặp Kim Ba. Kim Ba nói cậu đang định ra phố mua chút đồ cho gia đình, liền cầm lấy xe đạp giúp cậu, rồi đi xuống phố.
Cậu xách theo sáu chiếc bánh khô đen được bọc trong tấm vải lồng cũ kỹ, bước về phía ký túc xá của mình.
Bỗng nhiên cậu phát hiện Hà Hồng Mai đang đi phía trước. Cô ấy hình như không nhìn thấy cậu ở phía sau. Cậu thật sự rất muốn gọi cô một tiếng, để hỏi về cuốn sách kia.
Lúc này, cậu thấy Hà Hồng Mai đi phía trước bỗng cúi xuống, đặt một vật gì đó lên một bệ đất ven đường, rồi vẫn không quay đầu lại mà tiếp tục bước đi, dáng người cô lập tức biến mất ở chỗ rẽ vào khu ký túc xá nữ.
Tôn Thiếu Bình cảm thấy hơi ngạc nhiên. Khi cậu đi ngang qua chỗ cô vừa cúi xuống, đôi mắt cậu bỗng sáng lên: chẳng phải đó chính là cuốn "Lịch sử khởi nghiệp" của cậu sao? Hay quá, cô vẫn còn nhớ chuyện này! Nhưng mà, sao cô không đưa thẳng cho cậu, cần gì phải dùng cách như thế này… Cậu nhặt cuốn sách lên, nhưng trong bóng chiều nhập nhoạng, cậu cảm thấy có thứ gì đó từ trong sách rơi xuống đất.
Cậu giật mình, vội cúi xuống đất lần tìm. Cậu nhặt được một vật mềm mềm, đưa lên nhìn kỹ: Trời ơi, đó là một chiếc bánh làm từ bột mì trắng!
Cậu không kịp nghĩ gì, vội vàng lần mò nhặt hết mấy chiếc bánh rơi vãi trên đất. Bánh dính đất, cậu thổi sạch từng cái một bằng miệng.
Cậu cầm mấy chiếc bánh bột mì trắng ấy, đứng lặng trong sân trường tối om, nước mắt lưng tròng. Không, cậu không chỉ nhặt lại vài chiếc bánh, mà còn tìm lại được tình bạn và hơi ấm mà cậu đã đánh mất bấy lâu nay!
…Cũng chính vì những lý do này mà Tôn Thiếu Bình lại tràn đầy tình yêu với ngôi trường này. Thế nên, vừa đến ngày nhập học học kỳ này, cậu không chậm trễ lấy một ngày, vội vàng đến trường, thậm chí còn có phần nôn nóng nữa…