Chương 46

Nếu không xem các số liệu thống kê liên quan, ai có thể tưởng tượng được rằng giữa muôn trùng núi non trùng điệp của cao nguyên Hoàng Thổ này, rốt cuộc có bao nhiêu làng mạc và bao nhiêu hộ gia đình? Này những lữ khách! Có thể các bạn đã đi qua không ít dặm đường, nhưng ấn tượng của các bạn về mảnh đất cùng màu với ánh nắng này, e rằng cũng chỉ là một góc nhỏ như vết da báo mà thôi.

"Hoàng thổ" – cái tên gọi này đã xuất hiện từ lâu trong các sách sử của Trung Quốc. Nghiên cứu địa chất cho thấy, hoàng thổ là loại trầm tích bột kết dạng đất hình thành từ kỷ Đệ Tứ, do sự liên kết canxi của các hạt bụi màu vàng chứa hơn sáu mươi loại khoáng vật như thạch anh, fenspat, mica, v.v... Trên phạm vi toàn cầu, diện tích phủ hoàng thổ chiếm một phần mười lục địa, riêng Trung Quốc đã có tới 590.000 km² thuộc bảy tỉnh (khu) gồm Thiểm Tây, Sơn Tây, Cam Túc, Thanh Hải, Ninh Hạ, Hà Nam và Nội Mông. Về mức độ phân bố rộng lớn, độ dày của tầng đất và sự đa dạng về loại hình, khu vực này được xem là hiếm thấy trên thế giới. Tại Trung Quốc, từ tây bắc kéo về đông nam, các vùng Gobi – sa mạc – hoàng thổ lần lượt phân bố thành dải, vì thế trong lịch sử hình thành hoàng thổ, người ta cho rằng nó được vận chuyển từ xa bởi sức gió. Ngoài ra cũng có các học thuyết khác như do nước hoặc quá trình hình thành đất tạo nên. Do trong các lớp hoàng thổ tích tụ một lượng thông tin phong phú về kỷ Đệ Tứ, các nhà khoa học thường coi hoàng thổ là một đối tượng nghiên cứu đặc biệt – đại diện cho kỷ nguyên mới nhất trong lịch sử phát triển của Trái Đất.

Vì hoàng thổ có các đặc điểm như phát triển khe nứt thẳng đứng, độ rỗng lớn và dễ sụt lún, nên rất dễ bị rửa trôi, trượt lở và sụp đổ khi gặp nước. Trong suốt hai, ba triệu năm dài đằng đẵng, vùng đất rộng lớn này đã bị dòng nước bào mòn đến mức sông ngòi chằng chịt, đồi núi chia cắt, tan rã rời rạc, giống như khuôn mặt nhăn nheo, thô ráp của một cụ già – mỗi năm có tới 1,6 tỷ tấn bùn cát đổ vào sông Hoàng Hà!

Chính giữa muôn vàn nếp nhăn vàng ố mà thiên nhiên tạo ra ấy, hàng nghìn, hàng vạn con người đã sinh sống và sinh sôi qua biết bao thế hệ. Dù bạn có đi dọc theo bất kỳ “nếp nhăn” nào cũng sẽ bắt gặp làng xóm, người ở – và mật độ dân cư dày đặc đến mức khiến bạn phải ngạc nhiên. Những dòng suối nhỏ chằng chịt như mạng lưới, chẳng khác gì dây leo bí ngô, nối liền hết làng này sang làng khác. Những con sông trên vùng hoang nguyên – chính là dây leo sự sống. Có những làng không còn cách nào khác, đành phải chen chúc trên đỉnh núi khô cằn; dân làng quanh năm dùng súc vật chở nước từ khe suối dưới chân núi về uống, hoặc chỉ còn biết trông vào nước mưa từ trời rơi xuống mà sinh tồn. Ở những vùng núi sâu hẻo lánh, xa khỏi tuyến giao thông, người dân bàn chuyện bên ngoài núi chẳng khác gì người ngoài núi nói về nước ngoài – đầy vẻ mới mẻ. Theo một bản tin của “Báo Hoàng Nguyên”, có một ngôi làng hẻo lánh thuộc một huyện nọ, hàng chục hộ dân ở đó vậy mà không một ai từng nhìn thấy đồng hồ! Tình trạng lạc hậu đến mức này, e rằng ngay cả dân làng “Macondo” trong tiểu thuyết của Gabriel García Márquez cũng phải sửng sốt. Không cần nói cũng biết, những làng như vậy thì đừng nói là cán bộ huyện, đến cả cán bộ xã cũng thường chẳng đặt chân tới bao giờ…

Trong suốt một tuần qua, Điền Phúc Quân đã ghé thăm ba ngôi làng "góc chết" như thế. Ông không phải đến đây để giải quyết vấn đề gì cụ thể, mà là tự mình quyết định thực hiện chuyến đi thăm không có trong kế hoạch công tác ban đầu này.

Một tuần trước, ông đến xã Hậu Tử Đầu – nơi xa nhất huyện – để kiểm tra công tác, tình cờ phát hiện xã này có bốn ngôi làng mà các cán bộ xã hoàn toàn mù tịt thông tin – họ thậm chí chưa một ai từng đặt chân đến đó. Qua tìm hiểu, ông biết rằng muốn đến những ngôi làng này, đừng nói ô tô, đến cả xe đạp cũng không thể đi được; chỉ có cách cuốc bộ, trèo non lội suối men theo lối mòn, mất trọn hai ngày đường mới tới nơi.

Điền Phúc Quân vô cùng tức giận với tình trạng làm việc của xã Hậu Tử Đầu. Ông không cho phép cán bộ xã đi cùng, quyết định một mình cuốc bộ tới những ngôi làng bị lãng quên đó để tận mắt xem xét.

Ba ngôi làng mà Điền Phúc Quân đã đi qua, tình hình khiến người ta kinh hoàng. Thiếu ăn thiếu mặc là hiện trạng phổ biến. Có những cô gái mười bảy, mười tám tuổi mà quần áo không đủ để che thân. Một số bệnh thường gặp vốn dễ chữa, lại hành hạ con người suốt thời gian dài; còn những người mắc bệnh nặng thì nằm trên giường đất trơ trọi không trải chiếu, chỉ còn biết chờ chết. Ban đêm, rất ít nhà thắp đèn; trời vừa tối, mọi người đã đóng cửa đi ngủ. Sói hoang như chốn không người, nhảy vào chuồng cừu cắn xé tùy ý, mà chẳng ai dám ra xua đuổi – nghe nói lũ sói ở đây từ lâu đã chẳng xem con người ra gì nữa rồi. Hiếm ai rửa mặt, còn nói gì đến các điều kiện vệ sinh khác. Phần lớn gia đình ngoài chút đồ đủ sống lay lắt ra thì gần như chẳng có thứ gì. Có nhà nghèo đến mức không có nổi muối để ăn, phải quét ít đất sét trắng ở chân tường nhà xí – thứ gọi là “đất Quan Âm” – rồi trộn vào cơm…

Khi Điền Phúc Quân đến các ngôi làng này, dân làng hầu như đều kéo nhau ra đứng từ xa nhìn ông, như thể có người ngoài hành tinh tới. Mỗi khi đến một làng, ông đều đi thăm từng nhà. Có những vấn đề có thể giải quyết ngay, ông bàn với trưởng đội rồi xử lý liền tại chỗ. Có những vấn đề thuộc thẩm quyền xã, ông ghi chép lại cẩn thận. Có những vấn đề xã cũng không thể giải quyết nổi, ông dự định sau khi về huyện sẽ cùng các phòng ban liên quan bàn bạc, tranh thủ xử lý càng sớm càng tốt.

Giờ đây, Điền Phúc Quân đang lưng gập vai leo trên một con đường núi gập ghềnh, đi đến “góc chết” cuối cùng. Trong tay ông cầm một cây gậy củi, áo khoác vắt trên vai, giữa vùng núi non tĩnh lặng như tờ này, ông vừa đi vừa cảnh giác quan sát xung quanh đề phòng có sói hoang bất ngờ xuất hiện.

Sắp tới Tết Đoan Ngọ rồi, mặt trời trên đỉnh đầu chiếu xuống nóng rực rỡ. Tiếng gà rừng, chim trĩ hót vang thánh thót, thi thoảng phá tan thế giới yên ắng như mộng này. Màu xanh trên mặt đất đã trở nên rực rỡ. Phần lớn vụ mùa thu đã được làm cỏ một lượt. Giữa ruộng ngô, cỏ linh lăng nở đầy những bông hoa tím hồng. Trên sườn đồi hướng nắng, những bông lúa lác đác đã bắt đầu ngả vàng; bên vệ đường, trong những bụi ngải đắng xám trắng, đôi khi bất chợt có một con thỏ rừng lao vọt ra, khiến Điền Phúc Quân toát mồ hôi lạnh.

Vừa đi, ông vừa nhổ một nắm ngải đắng, đưa lên mũi ngửi. Mùi ngải đắng nồng nàn pha chút thanh mát khiến ông bất giác nhớ đến những cái Tết Đoan Ngọ thời thơ ấu – khi đó, ông và anh Phúc Đường lúc nào cũng dậy thật sớm, nhổ thật nhiều ngải cứu để gài lên cửa, gài vào tai cả nhà, rồi mở nồi bánh ú thơm nức mũi… Ai ngờ, từ đó đến nay, mấy chục năm đã trôi qua. Con người, có lúc thấy thời gian trôi thật chậm; có lúc lại thấy nhanh đến mức không kịp làm gì cả! Nhớ hồi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, ông mới ngoài ba mươi, đang độ tuổi tráng kiện – vậy mà quãng thời gian đẹp nhất ấy lại bị lãng phí vô ích. Mấy năm trước, tuy có khôi phục công việc, nhưng thực ra cũng chỉ là tiếp tục chịu khổ trong chảo dầu. Mãi đến khi “Tứ nhân bang” bị lật đổ không lâu trước đây, ông mới cảm thấy như mình trẻ lại. Chỉ cần đất nước có hy vọng, thì dù làm việc đến kiệt sức cũng thấy vui! Vì ông luôn gắn bó với thực tế công tác, nên ông hiểu rõ những tổn hại thảm khốc mà mười năm Cách mạng Văn hóa đã gây ra – đó là tổn hại trên nhiều phương diện, không thể khắc phục trong một sớm một chiều. Ông thường nghĩ, với tư cách là một cán bộ lãnh đạo cơ sở, trong phạm vi công tác của mình, vừa phải cắm đầu làm việc, vừa phải động não tìm cách làm mới. Dĩ nhiên, vấn đề cấp bách trước mắt vẫn là chuyện cái ăn của nông dân. Giờ nhìn lại, nếu không có thay đổi chính sách lớn, thì chuyện này vẫn khó mà giải quyết nổi. Vậy thì giải quyết được chừng nào hay chừng đó, ít nhất cũng đừng để dân đói chết…

Gần trưa, Điền Phúc Quân mới đến một thôn nhỏ tên là Thổ Nhai Ao. Thôn này chỉ có mười mấy hộ dân, là một tổ sản xuất, thuộc sự quản lý của một đại đội ở ngoài mấy rặng núi. Toàn thôn không có đảng viên, cũng không có đoàn viên; tổ trưởng thì luân phiên, mỗi năm thay một người, gần như tất cả nam lao động đều từng làm tổ trưởng một lần.

Điền Phúc Quân được tổ trưởng hiện tại mời về nhà ăn cơm trưa. Hang đất của tổ trưởng tối om như một cái hang núi, giữa ban ngày mà vào trong không nhìn rõ có mấy người. Ông ngồi trên chiếc giường đất trải mấy mảnh chiếu rách, hỏi han tình hình trong thôn. Vợ tổ trưởng đang nấu cơm trên bếp. Một lúc sau ông mới phát hiện, nhà này có sáu đứa con, đứa nào cũng lớn lù lù, chen chúc trong góc cửa, nhìn ông đầy sợ hãi. Lũ trẻ gần như không mặc gì, khó mà phân biệt trai gái, đầu thì đều cạo trọc – chắc là để phòng chấy rận.

Cơm trưa được dọn lên, Điền Phúc Quân cầm lấy một chiếc bánh ngô. Vừa định ăn thì phát hiện trên bánh có vết đen. Ông lập tức đứng dậy, đi tới cuối giường mở vung nồi ra. Trong nồi chỉ có hai chiếc bánh ngô, còn lại toàn là bánh bã – loại làm từ cám. Họng ông lập tức nghẹn lại.

Điền Phúc Quân đặt chiếc bánh ngô trong bát mình lại vào nồi, rồi dùng tay cầm lấy một bánh cám. Vừa bóp nhẹ, bánh cám đã nát vụn thành một nắm vụn nhỏ. Ông liền cầm chiếc xẻng sắt đặt bên bếp, xúc đống vụn ấy vào bát mình, chan thêm hai muỗng nước luộc rau, rồi trở lại giường cúi đầu ăn ngấu nghiến. Cả nhà tổ trưởng không ai dám thốt một lời. Hai vợ chồng và sáu đứa trẻ chỉ biết tròn mắt nhìn ông nuốt chửng bát bánh cám chan nước ấy.

Ông ta còn chưa kịp đặt bát xuống thì một ông lão đột nhiên xông vào từ ngoài cửa. Điền Phúc Quân còn chưa kịp phản ứng thì ông lão đã quỳ sụp xuống dưới chân đội trưởng, vừa dập đầu về phía ông đang ngồi trên giường đất vừa khóc lóc cầu xin:

“Ôi trời cao đất dày ơi! Xin cứu lấy mạng sống cả nhà tôi với…”

Điền Phúc Quân hốt hoảng, vội vã quăng bát, nhảy xuống giường đỡ ông lão dậy, hỏi dồn:

“Có chuyện gì vậy? Có chuyện gì vậy?”

Ông lão vừa khóc vừa nói:

“Nhà tôi ba miệng ăn mà bốn ngày nay chưa được hạt cơm nào! Sắp chết đói cả nhà rồi…”

“Không còn lấy một hạt lương nào sao?” Điền Phúc Quân hỏi.

“Đúng vậy…”

“Khẩu phần đâu?”

“Bị giữ lại rồi!”

“Tại sao lại bị giữ?”

Lúc này, đội trưởng mới lên tiếng:

“Thằng con nhà ông ấy bỏ làng đi lang thang, công xã với đại đội ra lệnh giữ lại khẩu phần. Chúng tôi cũng không dám phát…”

“Con tôi cũng vì đói quá mới phải bỏ đi thôi…” Ông lão khóc nấc.

“Đi, tôi đến nhà ông xem sao!”

Điền Phúc Quân lập tức dìu ông lão ra khỏi nhà đội trưởng; đội trưởng cũng hớt hải chạy theo sau.

Vừa bước vào nhà ông lão, Điền Phúc Quân đã thấy một bà lão nằm trên giường, đói đến mức thoi thóp không ra hơi. Ông cúi người hỏi han nhưng bà lão thậm chí không mở nổi mí mắt, càng không đủ sức để trả lời. Dựa vào chân tường là một cô bé chừng mười bốn, mười lăm tuổi, mắt nhắm nghiền, sắc mặt vàng vọt. Thấy có người lạ đến, cô cố gắng chống tay vào tường đứng dậy, tuyệt vọng nhìn ông.

Chứng kiến cảnh tượng thê lương ấy, nước mắt Điền Phúc Quân trào ra như suối. Ông nghẹn ngào, nắm chặt vai đội trưởng, nói như ra lệnh:

“Mau đi kiểm kê lương thực!”

Đội trưởng ngập ngừng, ngây ngốc nói:

“Công xã với đại đội lãnh đạo không cho phát lương, tôi…”

“Đồ khốn!” Người luôn điềm đạm như Điền Phúc Quân cũng không kiềm chế được mà buông lời chửi mắng. Ông túm lấy cổ áo đội trưởng, lôi đi kiểm kê lương thực ngay lập tức.

Khi Điền Phúc Quân và đội trưởng mỗi người vác một bao lương thực quay lại thì cả ba người trong nhà ông lão đã lồm cồm quỳ trước cửa, khóc nức nở thành một đống…

Ba ngày sau, theo chỉ thị của Điền Phúc Quân, công xã Hậu Tử Đầu đã triệu tập hơn hai mươi bí thư đại đội đến họp.

Vừa bắt đầu cuộc họp, Điền Phúc Quân đã hỏi thẳng:

“Đội nào có hộ đã cạn lương thực? Bao nhiêu hộ? Thiếu bao nhiêu?”

Vừa dứt lời, không ít bí thư đã bật khóc. Họ lần lượt kể về tình cảnh bi đát của từng đội. Ngoại trừ một vài thôn cá biệt, phần lớn các thôn đều có rất nhiều hộ thiếu lương thực; có hộ chỉ cầm cự được một, hai tháng, có hộ thì đã sắp đến mức “treo niêu”.

Tình hình nghiêm trọng đến mức nếu không kịp thời giải quyết thì năm nay công xã Hậu Tử Đầu có khả năng sẽ có người chết đói. Không phải là các đội không còn hạt lương nào, tất cả đại đội đều có “lương dự trữ chiến đấu”. Nhưng số lương thực đó dùng để phòng khi chiến tranh xảy ra, cấp trên đã quy định dù trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được phép động đến — nếu sử dụng tức là phạm pháp!

Lúc này, Điền Phúc Quân không còn nghĩ đến hậu quả cá nhân nữa — ông không thể để mặc người dân chết đói. Ông lập tức quyết định mở kho lương thực của các đội, nhanh chóng phân phát cho các hộ đang thiếu đói. Phần thiếu hụt của “lương dự trữ chiến đấu” sẽ được bổ sung dần sau này — như vậy có thể xem là “mượn lương” chứ không phải “chia lương”. Dù sao đi nữa, ông cũng đã nghiêm trọng vi phạm lệnh cấm. Ông nghĩ, nếu vì chuyện này mà bị đưa ra tòa, ông cũng có thể đường đường chính chính biện hộ cho hành động của mình…

Vốn dĩ Điền Phúc Quân còn định ở lại công xã Hậu Tử Đầu thêm vài ngày, định tiện thể đi kiểm tra một số đại đội dọc tuyến đường lớn. Nhưng chiếc xe jeep của Ủy ban Cách mạng huyện đột ngột đến đón ông về. Bởi vì một vị lão thủ trưởng trung ương sắp đến Hoàng Nguyên thị sát, vị lão thủ trưởng này lại là người huyện Nguyên Tây, vài ngày nữa sẽ về huyện, khu yêu cầu Nguyên Tây phải dốc toàn lực chuẩn bị đón tiếp. Phùng Thế Khoan nhận được thông báo liền lập tức cử xe đi đón tất cả các ủy viên thường vụ đang ở bên ngoài về họp, bàn bạc công tác tiếp đón vị lão thủ trưởng này.

Điền Phúc Quân dù ngồi trên chiếc xe jeep lao vun vút, nhưng tâm trí ông vẫn còn ở lại tại công xã Hậu Tử Đầu. Qua cuộc điều tra vội vã này, ông nhận ra rằng mặc dù "Nhóm bốn người" đã bị đánh đổ, nhưng tình hình nghèo đói ở nông thôn vẫn không thay đổi. Để thay đổi tình trạng này, phải giải quyết vấn đề từ căn bản. Ông nghĩ: số lương thực trong kho chiến lược lấy ra rồi, vậy sẽ phải làm sao khi ăn hết? Lẽ nào lại tiếp tục đói bụng?

Về đến huyện, tối hôm đó, Phúc Quân ăn cơm xong ở nhà, tâm trạng vẫn không tốt. Ông không muốn nói chuyện với gia đình, liền một mình vào văn phòng.

Ông ngồi trên chiếc ghế xoay trong văn phòng, ngây người nhìn vào tấm giấy cửa sổ. Những khuôn mặt gầy gò, xanh xao vì đói lại hiện lên trước mắt ông. Ông cúi đầu, dùng tay cái một cách thần kinh mà vuốt tóc, một lát sau, ông thấy tóc bạc, tóc đen rơi xuống bàn. Nghe thấy tiếng gõ cửa, ông nói: "Cửa mở, vào đi!"

Ông nhìn thấy cháu gái Nhuận Diệp bước vào. Ông ngạc nhiên khi thấy cháu gái mình cũng có khuôn mặt hốc hác, tiều tụy, giống hệt cô gái đã bốn ngày chưa ăn cơm trong ngôi làng trên vách đất. Ông nghĩ rằng, vừa rồi, tâm trí ông bị chìm đắm trong những hình ảnh về những người đói khổ, nên bây giờ nhìn cháu gái lại có sự nhầm lẫn. Nhưng khi quan sát kỹ, ông nhận ra rằng không sai — cháu gái ông thật sự gầy đi, như một người đói khổ. Có chuyện gì vậy? Cháu gái ông cũng không có cơm ăn sao?

Điền Phúc Quân không biết rằng cháu gái mình đang thiếu một loại "lương thực" khác. Kể từ khi lấy chồng là con trai của Lý Đăng Vân, cô ít khi về thăm ông. Vì công việc bận rộn, ông cũng không có thời gian để quan tâm nhiều đến cháu. Ông nghĩ rằng Nhuận Diệp đã lập gia đình, đã có người chăm sóc, lo lắng cho cô, vì vậy ông không cần phải lo lắng nữa. Nhuận Diệp không thường xuyên về thăm ông cũng là điều bình thường, vì cô đã có gia đình rồi! Dù có bất đồng gì giữa ông và Lý Đăng Vân trong công việc, ông vẫn hài lòng với cuộc hôn nhân này. Ông không nhìn nhận cuộc hôn nhân này qua cái nhìn của xã hội về sự xứng đôi vừa lứa — chỉ cần hai người yêu nhau, đó là điều quan trọng nhất!

Tất nhiên, Điền Phúc Quân hoàn toàn không biết tình hình đằng sau cuộc hôn nhân này. Ông chỉ tiếc vì khi Nhuận Diệp kết hôn, ông đang học ở tỉnh và không thể tham dự lễ cưới; sau khi cô cưới xong, ông cũng không chú ý đến cô nhiều.

Bây giờ, cháu gái tự mình đến văn phòng tìm ông, ông cảm thấy vui và có chút hối lỗi.

Ông bảo Nhuận Diệp ngồi vào ghế đối diện bàn làm việc, vừa tự tay pha cho cô cốc nước đường, vừa nói: "Sau khi cháu lập gia đình, chú bận quá, không có thời gian thăm cháu... Nghe nói cháu đang ở trong ký túc xá của công ty vận tải?"

"Không phải. Cháu ở trường học," Nhuận Diệp nhận cốc nước, nhưng không uống mà để trên bàn.

"Ở trường học? Sao? Lý Đăng Vân không phải có nhà ở công ty vận tải sao? Hai người sao lại sống trong văn phòng trường học?"

"Cháu ở một mình..."

"Ở một mình?"

"Vâng."

"Tại sao vậy?"

Lòng Điền Phúc Quân chùng xuống. Ông nhìn khuôn mặt buồn bã, tiều tụy của cháu gái, cảm nhận có điều gì không ổn, liền nhíu mày.

Nhuận Diệp đột nhiên quay mặt đi, miệng mím lại rồi khóc.

Cô vừa khóc vừa nghẹn ngào nói với chú: "Chú tìm cho cháu một công việc ở nơi khác đi! Cháu không muốn ở lại Nguyên Tây nữa..."

"Tại sao?" Điền Phúc Quân đứng dậy khỏi ghế và lại hỏi cháu gái.

"Cháu không muốn ở với Lý Hướng Tiền..." Nhuận Diệp vừa khóc vừa nói.

Điền Phúc Quân từ phía bàn làm việc bước ra, cúi xuống ôn tồn nói: "Nhuận Diệp, cháu từ nhỏ đã là đứa trẻ hiểu chuyện, nói với chú, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Cháu và Lý Hướng Tiền không phải là tự nguyện kết hôn sao? Sao lại thành ra như vậy? Nói cho chú nghe đi!"

Nhuận Diệp lau nước mắt trên mặt, nói: "Lúc trước, cháu trong lòng cũng không muốn..."

"Nếu như vậy, sao cháu lại kết hôn?"

"Vì Từ Đại Phúc nói..."

"Ông nói gì?"

Nhuận Diệp do dự một lúc, rồi mới ngập ngừng kể lại những lời khuyên của Từ Quốc Cường khi ông ta khuyên cô kết hôn với Lý Hướng Tiền.

"Đồ ngốc!"

Điền Phúc Quân nghe xong những lời cháu gái kể, tức giận mắng một tiếng, nghĩ rằng không thể ngờ được, cha của Hà Phượng Anh không chỉ trồng một ít hoa màu không ra gì trong sân nhà ông, mà còn làm ra một chuyện ngớ ngẩn và ngu xuẩn như vậy. Điều này đã hủy hoại cả cuộc đời của Nhuận Diệp và Lý Hướng Tiền.

Sau những gì chứng kiến ở nông thôn mấy ngày trước, tâm trạng ông đã nặng nề. Nay lại thêm chuyện của cháu gái, khiến tâm trạng ông càng tồi tệ hơn.

Ông cúi gập người, đi qua đi lại trong phòng, tay ôm lấy ngực, cảm thấy khó chịu.

Lúc này, Nhuận Diệp dùng khăn tay lau hết nước mắt, không khóc nữa, cô nói: "Chú đừng quá lo lắng cho cháu, chú. Dù sao chuyện đã rồi, không thể thay đổi. Cháu cũng không định ly hôn; cháu không chịu nổi tiếng xấu đó. Hơn nữa, nếu cháu ly hôn, hai ông bà ở nhà sẽ không chịu nổi đâu. Bây giờ cháu cứ vậy mà sống tiếp. Sau này có cơ hội, chú chuyển cháu đi làm ở nơi khác; cháu thật sự không muốn ở lại Nguyên Tây nữa... Chú đã quan tâm cháu từ nhỏ, nuôi dưỡng cháu, cháu sẽ luôn ghi nhớ ơn của chú."

Điền Phúc Quân một tay vuốt trán, vừa nghe cháu gái nói, vừa lo lắng nghĩ cách giải quyết vấn đề này. Câu chuyện thực sự rất phức tạp. Ông không biết phải làm gì, chỉ có thể nghĩ như một triết gia bi quan: có lẽ chỉ có thời gian mới giải quyết được vấn đề này... Lúc này, từ ngoài cửa sân vang lên tiếng của Phùng Thế Quân: "Phúc Quân, anh về rồi à?"

Điền Phúc Quân từ trong phòng đá trả lời: "Về rồi."

Nhuận Diệp lập tức đứng dậy chào từ biệt chú.

"Cháu phải thoải mái trong suy nghĩ, đừng làm sức khỏe mình yếu đi, phải ăn uống đầy đủ..." Ông đưa cháu gái ra cửa văn phòng. Vừa lúc Phùng Thế Quân bước vào văn phòng, bàn về cách tiếp đón lãnh đạo cao cấp từ trung ương...