Chương 10

Thời gian sải những bước dài tiến vào năm 1980.

Mùa xuân đầu tiên của thập niên tám mươi, đời sống xã hội Trung Quốc bắt đầu tan băng trên diện rộng. Trên khắp dải đất rộng lớn ấy, ở đâu cũng có thể nghe thấy tiếng băng vỡ lách cách. Mùa đông chẳng thể kéo dài mãi mãi. Một khi giá lạnh bắt đầu thoái lui, muôn vật sẽ thi nhau trỗi dậy từ lòng đất.

Tuyệt vời thay, mùa xuân đã đến! Đất trời một lần nữa sẽ bừng lên sức sống và sinh khí. Nhưng những người đang tiến bước vẫn phải cẩn trọng; cần nhớ rằng, con đường mùa xuân vẫn còn đầy bùn lầy...

Từ cuối tháng hai dương lịch đến đầu tháng ba, trước khi nông dân đưa trâu ra đồng, làn sóng thực hiện chế độ khoán sản lượng đã nhanh chóng lan rộng khắp cao nguyên Hoàng Thổ. Trước tình hình đó, tuy trong xã hội vẫn còn những tiếng thở than “nước chẳng ra nước”, nhưng không ai còn có thể ngăn cản sự phát triển của xu thế lớn này nữa.

Không nghi ngờ gì, đây là cuộc cải cách to lớn nhất mà nông thôn Trung Quốc từng trải qua trong lịch sử cận đại, sau cải cách ruộng đất và hợp tác hóa. Tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó, hiện tại vẫn chưa thể đánh giá hết được.

Điều đầy kịch tính là, hơn hai mươi năm trước, phong trào hợp tác hóa nông thôn Trung Quốc đã gom góp sức lao động cá thể lại thành phương thức sản xuất đại tập thể; còn nay thì hoàn toàn ngược lại. Cuộc sống vốn là như vậy. Hợp rồi tan, tan rồi hợp — tất cả đều là sản phẩm của điều kiện lịch sử nhất định. Biết đâu chừng vài năm sau, nông thôn Trung Quốc sẽ lại tái hợp thành đại tập thể — nhưng khi đó, tình hình sẽ không và cũng không nên giống như trước nữa. Con người chính là phát triển trong quá trình phủ định của phủ định như thế. Dĩ nhiên, trong khoảng vài chục năm ngắn ngủi, những cuộc phân tán và tập trung quy mô lớn như vậy, có lẽ chỉ có Trung Quốc mới đủ tầm vóc vĩ đại để thực hiện được.

Tại khu vực Hoàng Nguyên, mặc dù Bí thư địa ủy Miêu Khải và Phó bí thư Cao Phượng Các — người được mệnh danh là “Xút-lốp của Trung Quốc” — vẫn còn ra sức chống đỡ chế độ khoán sản lượng như kiểu “chống cánh cửa sập”, nhưng cuối cùng cánh cửa ấy vẫn không trụ nổi. Cái gọi là “đường lối” của Điền Phúc Quân mà Cao Phượng Các từng nói, rõ ràng đã chiếm thế thượng phong. Trên cơ sở công việc sau vụ thu hoạch mùa hè năm ngoái, hiện tại chế độ khoán sản lượng đã được triển khai ở tất cả các huyện nông thôn trong toàn khu. Dĩ nhiên, năm nay đã tiến xa hơn năm ngoái — gần như tất cả các vùng quê đều đã khoán đến hộ gia đình. Điền Phúc Quân hiểu rõ, điều này không phải do năng lực cá nhân ông lớn lao gì, mà là bởi chủ trương trung ương cùng khát vọng cháy bỏng của nông dân đã trực tiếp hòa quyện vào nhau, tạo nên thế phát triển không thể ngăn cản...

Không lâu sau Tết Nguyên Đán, ngôi làng nhỏ Song Thủy đã náo loạn như tổ ong vỡ tổ. Điền Phúc Đường, người luôn phản cảm với chế độ khoán sản lượng, lần này lại bất ngờ quay ngoắt thái độ, làm một cuộc “cách mạng triệt để”, tuyên bố cả làng “làm riêng lẻ” — ai muốn làm sao thì làm! Thái độ ấy thực ra là một cách trút giận bất mãn — và điều đó tất yếu dẫn đến một thời gian hỗn loạn.

“Kệ cha nó, cứ loạn đi cho xong!” Điền Phúc Đường lẩm bẩm trong bụng. Thậm chí ông ta còn cảm thấy một chút khoái trá.

Cuộc hỗn loạn bắt đầu từ đội 2 thôn Kim Gia Loan.

Người trong đội 2 có thành phần phức tạp, lại thêm việc sau vụ thu hoạch hè năm ngoái không thực hiện tổ khoán sản lượng, nên giờ thấy đội 1 đã có lợi thì ai nấy đều nóng ruột; mà nay Điền Phúc Đường lại cho mọi người “làm riêng”, thế thì không thể để đội 1 vượt mặt được nữa. Thế là nói chia là chia, biến việc thực hiện chế độ khoán thành cảnh phân chia tài sản địa chủ thời cải cách ruộng đất, hoàn toàn không theo quy củ gì cả.

Khi chia đất, dù bốc thăm bằng giấy cuộn, nhưng vì phân hạng chưa kỹ, bốc thăm xong còn chưa ra đồng đo đất, nhiều người đã cãi nhau ầm lên trong lò gạch tập thể của đội 2; có vài người thậm chí còn lao vào đánh nhau. Khi chia gia súc và tư liệu sản xuất ở chuồng trại thì tình hình còn hỗn loạn hơn. Người ta chen chúc vào chuồng theo kết quả bốc thăm để dắt gia súc. Ai may mắn thì cười tươi, ai xui thì la hét, chửi rủa; có người thậm chí ngồi bệt xuống đất, chẳng màng thể diện mà khóc toáng lên. Những vật dụng tập thể khác thì chia theo “chính sách thôn quê”, chia không nổi thì cướp, giành, rồi cãi, rồi chửi, rồi đánh nhau; dù là một sợi dây thừng buộc trâu cũng phải cắt thành nhiều đoạn, mỗi người mang đi một khúc. Một khi đã mất nguyên tắc và không có chỉ đạo đúng đắn, tính ích kỷ của nông dân liền bộc lộ mạnh mẽ. Họ không tiếc biến một vật còn nguyên thành đồ bỏ, cũng phải đập ra, để mỗi người chia một phần — không dùng được cũng mặc! Dù sao tôi không dùng được thì anh cũng đừng mong dùng được! Cả chiếc máy kéo tay của tập thể cũng bị tháo tung ra tám mảnh, chia như chia thịt heo, mỗi người vác một bộ phận mang đi — nghe nói thép trên máy kéo tốt, có thể mang đến Thạch Cát Tiết hay trấn Mễ Gia rèn thành cuốc...

Những người đỏ mắt vì phần chia của đội 2 đã hết, bèn kéo ra quốc lộ chặt cây bên đường thuộc đất đội mình để chia.

Phó bí thư chi bộ thôn Kim Tuấn Sơn thường đóng vai “đội chữa cháy”. Nhìn tình hình ấy, ông sốt ruột đến tìm đội trưởng đội 2 là Kim Tuấn Vũ, nói:  “Chẳng lẽ dân Kim Gia Loan chúng ta không muốn sống nữa sao? Cây bên quốc lộ làm sao mà chia được! Đó là tài sản của nhà nước! Anh là người thông minh, hôm nay sao hồ đồ vậy? Anh không tin thì cứ xem, cây một khi đã bị chia, vài ngày nữa dân sẽ đào luôn cả gốc! Nửa làng Kim Gia Loan chắc bị công an trói bằng dây thừng hết cho coi!”

Kim Tuấn Vũ mắt còn dính ghèn, bất lực nói với Kim Tuấn Sơn: “Giờ tôi cũng hết cách rồi. Nghe đến chuyện làm riêng, ai trong đội còn coi tôi ra gì nữa? Dân trong đội chỉ cần hét lên một tiếng là muốn làm, thì làm sao tôi ngăn được? Hơn nữa, cho dù tôi không đồng ý, mọi người sẽ bảo: ngay cả Điền Phúc Đường còn đồng ý, anh Kim Tuấn Vũ là cái thá gì? Anh quản chúng tôi hơn chục năm rồi, giờ cút đi cho khuất!”

Những gì Tuấn Vũ nói cũng là thực tế. Kim Tuấn Sơn thấy không làm gì được, liền đến trường tìm con trai là Kim Thành, nhờ cậu đạp xe đến xã Thạch Cát Tiết tìm lãnh đạo — một khi cục diện làng Song Thủy mất kiểm soát, cách của Kim Tuấn Sơn chỉ còn là tìm lãnh đạo xã tới giải quyết — cũng không phải là một kế sách tệ.

Nhưng thầy giáo tiểu học Kim Thành lưỡng lự nói với cha mình: “Con là giáo viên, chuyện này là việc của làng, con làm sao có thể mời lãnh đạo xã đến được chứ?”

Không phải người dễ nổi nóng, nhưng lần này Kim Tuấn Sơn gào lên với con trai: "Con nói với Từ Trị Công và Lưu Căn Dân rằng ở thôn Song Thủy người ta vì chia của mà đánh nhau đến chết người rồi, xem họ có đến không!"

Kim Thành đành phải đạp xe đi tới xã Thạch Cát Tiết… Tối hôm đó, Phó Chủ nhiệm xã – đồng chí Lưu Căn Dân – đã đến thôn Song Thủy.

Nhìn thấy tình hình ở Kim Gia Loan, đồng chí Lưu nổi giận thực sự. Vị lãnh đạo trẻ tuổi này liền gọi Điền Phúc Đường đến, không chút khách khí mà nghiêm khắc phê bình một trận.

Điền Phúc Đường vô cùng kinh ngạc: Thằng nhãi ranh này lại dám đến mắng ông? Từ ngày ông làm lãnh đạo đại đội tới nay, bao đời lãnh đạo xã có ai dám phê bình ông như vậy đâu! Dù ông có làm sai, trước đây lãnh đạo cũng chỉ lựa lời nhẹ nhàng khuyên bảo thôi – không ngờ thời thế thay đổi, đến lượt một thằng ranh lại dạy đời ông như dạy trẻ con!

Nhưng tuổi tuy nhỏ, người ta lại là cấp trên, Điền Phúc Đường đành phải nhận lỗi, nói rằng mình làm việc chưa chu toàn. Tuy nhiên ông vẫn nhấn mạnh là mình cũng chỉ muốn "thực hiện đường lối của Đảng", định làm cho phong trào này "rầm rộ khí thế"...

Lưu Căn Dân lập tức yêu cầu đình chỉ việc thực hiện “khoán hộ” ở Kim Gia Loan, yêu cầu dân làng trả lại những vật dụng đã chia, còn những công cụ sản xuất bị phá hoại thì phải căn cứ mức độ mà người làm hỏng phải bồi thường theo giá trị.

Sau đó, Lưu Căn Dân báo cáo cho Từ Trị Công, rồi quyết định ở lại thôn Song Thủy. Anh bắt tay giúp hai đội sản xuất trong làng tổ chức lại việc thực hiện khoán sản một cách trật tự. Anh cùng các cán bộ từ đội nhỏ đến đội lớn lập thành tổ lãnh đạo, làm việc ngày đêm để xử lý công việc phức tạp này.

Dựa vào kinh nghiệm từ những nơi đã làm thành công, Lưu Căn Dân cùng cán bộ và xã viên nhiều lần thảo luận rồi quyết định: chia đất theo loại (đồng bằng, núi, bãi…) và phân loại theo hướng (hướng nắng, hướng khuất, xa hay gần); trâu bò ngựa dê được định giá theo chất lượng; cày bừa, yên cương, xẻng, dao chặt, quang gánh, xe cải tiến, máy xay, máy dầu… đều được định giá theo tình trạng tốt xấu. Đất chia theo khẩu phần. Gia súc sau khi định giá thì chia đều theo sức lao động, bên nào lệch giá thì bù trừ với nhau. Dụng cụ sản xuất bán cho cá nhân theo giá quy định. Các gian nhà công cộng vẫn giữ làm tài sản tập thể. Cây trồng nếu là do tập thể trồng thì định giá bán cho cá nhân. Còn cây trồng ven đường là tài sản tập thể và của nhà nước, nghiêm cấm đụng tới. Cây cối của tư nhân bị trưng dụng hồi phong trào “Một đánh ba phản” năm 1971 thì căn cứ chính sách cũ của huyện Nguyên Tây mà xử lý: còn sống thì trả lại chủ, hư hỏng thì bồi thường.

Ngoài ra, một số cán bộ chủ chốt của đại đội còn được chia thêm 6–10 mẫu đất, từ nay về sau nếu họp hành hay làm việc công thì không còn được nhận phụ cấp nữa...

Sau gần nửa tháng vất vả rối ren, đến khi tiễn Lưu Căn Dân quay về xã, việc thực hiện khoán hộ ở thôn Song Thủy cuối cùng cũng hoàn tất.

Bây giờ, ngôi làng vốn lúc nào cũng ồn ào náo nhiệt này đã yên tĩnh trở lại.

Nhưng nhịp sống trong từng gia đình lại căng thẳng khác thường. Vụ cày cấy mùa xuân đã bắt đầu, nhà nào nhà nấy bận rộn tối mặt. A ha, bao năm qua mọi người đều lao động tập thể, bây giờ mỗi hộ tách riêng, ai nấy vừa lạ lẫm vừa háo hức. Từ nay về sau, số phận nằm trong tay mình rồi, còn ai dám lười biếng? Không ai có thời gian lo chuyện thiên hạ nữa, tất cả đều vùi đầu vào mảnh ruộng của mình mà ra sức cày cuốc; mọi "trung tâm buôn chuyện" trong làng đều tự động đóng cửa… Thôn Song Thủy bắt đầu một cuộc sống mới.

Cùng lúc, những vấn đề mới cũng lập tức nảy sinh: gần một nửa học sinh nghỉ học, về nhà phụ bố mẹ làm ruộng. Một nhà làm ruộng riêng lẻ, vừa phải canh tác, vừa phải trông nom trâu bò, chăn dắt dê cừu – nhà nào cũng thiếu người!

Lớp trung học cơ sở trong làng tan rã. Phần lớn học sinh đã về nhà, một hai em muốn học tiếp thì chuyển lên trường trung học ở Thạch Cát Tiết. Hai giáo viên được tăng cường để lập lớp – Tôn Thiếu Bình và Điền Nhuận Sinh – đương nhiên bị giải thể chức vụ.

Điền Nhuận Sinh chẳng mấy chốc đã theo anh rể là Lý Hướng Tiền đi học lái xe, phấn khởi rời khỏi thôn Song Thủy; còn Tôn Thiếu Bình mặt mày ủ rũ đành giống học trò của mình, về nhà làm ruộng.

Như vậy, nhà Tôn Ngọc Hậu có tới ba lao động khoẻ mạnh. Trong hoàn cảnh hiện tại của nông thôn, đây là tài sản lớn khiến cả làng Song Thủy phải ghen tị.

Điều khiến dân làng càng ghen tị hơn là: mùa thu đông năm ngoái, Tôn Thiếu An đi nhận thầu chở gạch ở thành Nguyên Tây, kiếm được một khoản tiền lớn – nghe nói tới mấy ngàn tệ cơ đấy!

Ôi chao, thời thế xoay vần, nhà từng bị xem là “tệ hại nhất làng” giờ đây lại có vẻ sắp phát đạt rồi!

Quả thật đúng vậy. Mấy cha con Tôn Ngọc Hậu bây giờ đã cứng cáp hơn nhiều. Chỉ cần chính sách không thay đổi, họ tin tưởng chỉ vài năm là có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống. Nhất là Tôn Thiếu An – lần đầu tiên trong đời anh có trong tay một khoản tiền lớn như vậy.

Năm ngoái trừ chi phí vận chuyển, tiền thuê nhà và thức ăn cho trâu, anh lời ròng hai nghìn tệ.

Ngoài ra, con la đen bán được 1.600 tệ. Sau khi trả nợ vay, lãi vay và 300 đồng vay của Thường Hữu Lâm, số tiền còn dư là 500 tệ – nghĩa là con la ấy cũng kiếm lời hẳn 500! Tổng cộng anh có 2.500 đồng – với một người nông dân thường ngày không có nổi một đồng xu, thì cầm một cục tiền to như thế trong tay đúng là vừa mừng vừa lo!

Phải rồi, giờ đây vấn đề đặt ra là: dùng khoản tiền này thế nào?

Ông già Tôn Ngọc Hậu sớm đã nói rõ: "Tiền là con kiếm được, tiêu thế nào con tự quyết. Cha không can dự…"

Còn Tú Liên thì chỉ một lòng muốn dùng tiền để xây mấy gian nhà hang mới.

Cô nài nỉ chồng: "Mình à, mình với em cưới nhau mấy năm rồi, lại có con rồi, vậy mà vẫn phải ở cùng chuồng với súc vật… không có một mái nhà tử tế, làm sao sống được? Em chịu đựng đủ rồi, em không muốn chui vào cái hang nát này nữa đâu! Giờ trong tay có chút tiền, mình ráng làm vài gian nhà hang đàng hoàng. Có được căn nhà như thế là có cơ nghiệp cả đời. Nếu không, cả nhà đông người như vậy, vài năm là tiêu sạch hết!… Mình chẳng lẽ lại để Hổ Tử lớn lên rồi cưới vợ mà cũng như mình bây giờ sao…"

Nói rồi, Tú Liên tủi thân mà bật khóc.

Thật ra, ban đầu Thiếu An cũng định dùng tiền đó để xây hang. Nhưng sau khi chia ruộng về từng hộ, trong lòng anh lại có một ý định khác.

Anh muốn dùng số tiền đó để làm vốn mở một lò gạch.

Khi đi chở gạch trên thành phố, anh nhận thấy hiện giờ ở đâu cũng xây dựng, gạch ngói luôn trong tình trạng thiếu hụt, có bao nhiêu bán hết bấy nhiêu. Lúc ấy anh đã nghĩ, nếu mở được một lò gạch, mỗi năm chắc chắn sẽ kiếm được không ít.

Lúc đó anh còn định về đề nghị lãnh đạo đại đội mở một xưởng gạch… Nay đã chia đất từng nhà, con người cũng tự do hơn. Vậy tại sao mình lại không làm được? Không đủ lực mở hẳn một xưởng gạch lớn, nhưng mở một lò nung gạch thì vẫn làm được – nhà mình có cả nam lẫn nữ đều là lao động, lo một lò gạch cũng không ảnh hưởng gì đến việc làm ruộng!

Khi đã quyết định xong, anh liền hỏi ý kiến cha mình trước. Cha anh vẫn như cũ chỉ nói một câu: “Tiền là do con kiếm được, tiêu thế nào con tự lo liệu đi!”

Sau đó, Tôn Thiếu An mất liền ba buổi tối, ôm lấy Tú Liên trong chăn, nói lời ngon tiếng ngọt, phân tích đạo lý, lấy ví dụ đủ kiểu, mãi mới thuyết phục được người vợ đang mê mẩn chuyện xây mấy cái nhà hang mới. Tuy nhiên, điều kiện mà Tú Liên đưa ra là: chỉ cần việc nung gạch có lời, thì việc đầu tiên là phải xây nhà hang mới.

Thiếu An đã đồng ý.

Vào khoảng tiết Thanh minh, đất đã tan hết băng giá, Tôn Thiếu An bắt đầu dựng lò nung gạch trên mảnh đất bên đường phía sau làng, nơi thuộc phần đất nhà anh được giao khoán.

Anh, cha anh, Thiếu Bình, Tú Liên và mẹ anh cùng nhau bắt tay vào việc, gần nửa tháng sau, cuối cùng đã dựng xong một lò gạch. Khi còn chở gạch ở thành phố Nguyên Tây, Thiếu An đã học được toàn bộ quy trình và kỹ thuật cơ bản của việc nung gạch. Sau khi lò được dựng xong, anh liền dẫn cả nhà bắt đầu đúc gạch mộc — trước đó, anh đã lên Nguyên Tây mua về một số công cụ cần thiết.

Mẻ gạch đầu tiên nhanh chóng được chất đầy. Than để nung gạch cũng đã được thuê xe của công ty vận tải huyện chở về.

Tối hôm đó, họ tất bật đến tận nửa đêm mới sắp xếp xong mọi chi tiết cuối cùng — sáng mai là bắt đầu nhóm lửa rồi!

Lúc gà gáy canh một, Thiếu An và Tú Liên mới trở về trại chăn nuôi của đội sản xuất. Giờ đây, gia súc đều đã được phân cho từng hộ, lão Điền Vạn Giang — người chăm sóc trại — cũng đã dọn về nhà ở, nên cả khu trại yên ắng lạ thường.

Tú Liên mệt đến mức vừa đặt đầu xuống gối đã ngủ ngay.

Nhưng Tôn Thiếu An thì làm sao mà ngủ được — sáng mai là nhóm lửa lò gạch rồi, một người nông dân trẻ phấn khích như vậy, sao có thể chợp mắt được?

Trong đêm khuya tĩnh mịch, dòng suy nghĩ của anh như dòng nước mùa xuân đang cuộn trào. Những chuyện đã qua, hiện tại, tương lai, bao nhiêu ký ức và tưởng tượng mơ hồ cứ đan xen hỗn độn trong đầu anh. Ánh trăng sáng như tuyết rọi qua cửa sổ, phản chiếu rõ ràng những hình cắt dán trên giấy mà Tú Liên làm hồi Tết: một chú chó nhỏ cụp đuôi, hai con dê núi đang húc nhau, đôi chim khách đang đậu trên cành mai...

Đột nhiên, Thiếu An nghe thấy bên ngoài có tiếng người nói chuyện.

Tim anh giật thót: Giờ này mà bên ngoài sao lại có người?

Anh khẽ nhấc đầu lên trong chăn, căng tai nghe, nhưng lại không nghe thấy gì — chẳng lẽ là mình nghe nhầm?

Anh định đặt đầu xuống gối lại, thì lần này quả thật nghe rõ tiếng người nói chuyện bên ngoài — dường như ngay trong sân, âm thanh rất thấp, lẩm bẩm như ma quỷ trong truyền thuyết...

Tuy không mê tín, nhưng da đầu Thiếu An cũng tê dại. Anh định gọi vợ dậy, nhưng lại sợ làm cô giật mình, nên lặng lẽ bò xuống giường, đứng sau cánh cửa nghe một lúc — quả thật vẫn có tiếng thì thầm!

Anh liền tiện tay lấy một cái xẻng trong góc cửa, nhẹ nhàng mở cửa, rón rén bước ra sân.

Sân nhà được ánh trăng chiếu sáng như ban ngày.

Anh lắng nghe kỹ một chút, phát hiện ra tiếng nói ấy phát ra từ cái nhà hang ngày trước dùng để buộc gia súc.

Thiếu An căng thẳng cầm chặt xẻng, bước thật nhẹ đến trước miệng hang. A! Hóa ra đó là lão Điền Vạn Giang!

Ông cụ chưa phát hiện ra anh, vẫn đứng trước bệ đất từng đặt máng đá, lẩm bẩm: “…Chắc là giờ này không cần ăn cỏ đêm nữa rồi… Ai mà nửa đêm dậy mấy lần để cho thêm cỏ thêm cám chứ… Hầy, gia súc không hiểu tiếng người, chỉ biết âm thầm chịu khổ thôi…”

Tôn Thiếu An không kìm được cay sống mũi, hốc mắt nóng ran, anh bước đến trước mặt lão Điền Vạn Giang.

Lão Vạn Giang giật mình, rồi há miệng ra, ngồi xổm xuống đất khóc nức nở.

Thì ra ông cụ đang nói chuyện với mấy con gia súc đã bị chia đi!

Con người mà…

Thiếu An cũng ngồi xuống, nói: “Bác ơi, cháu biết trong lòng bác buồn. Mấy con vật ấy bác nuôi bao nhiêu năm, có tình cảm rồi, giờ xa chúng nó, bác không nỡ. Cục đá để trong ngực ba năm còn thấy ấm, huống gì là vật sống! Nhưng bác đừng lo, nông dân ai mà chẳng quý gia súc? Về tay từng nhà, ai cũng sẽ chăm sóc kỹ lưỡng. Hơn nữa, mấy con vật đó vẫn ở trong làng, bác nhớ thì lúc nào cũng có thể đi thăm mà…”

Lúc này, lão Điền Vạn Giang mới lấy tay áo quẹt nước mắt trên khuôn mặt nhăn nheo, ngượng ngùng cười với đội trưởng: “Ôi, tôi quen dậy đêm rồi, nằm cũng không yên, nên mới ra đây… Cũng chẳng trách được…”

Thiếu An cũng cười: “Cháu cũng mất ngủ đây, hay là để cháu mang thuốc lào ra, hai bác cháu mình hút vài điếu rồi tán chuyện. Cháu còn có loại thuốc lào ngon đầu mùa, bố cháu phun rượu trắng rồi đem hấp đấy!”

Anh liền quay về nhà, cố không làm phiền vợ đang ngủ say, lấy túi thuốc và giấy cuốn, rồi lặng lẽ đi ra ngoài.

Anh đến phòng bên cạnh — trại chăn nuôi cũ — cùng lão Điền Vạn Giang ngồi xổm đối diện nhau, vừa hút thuốc vừa trò chuyện. Hai người nông dân bị biến đổi của cuộc sống làm cho không ngủ được ấy, cứ thế chuyện trò đến khi trời sáng trắng bên núi Miếu Bình...

Trời sáng hẳn, Tôn Thiếu An đầy phấn chấn gọi cả nhà dậy, kéo nhau ra lò nung gạch.

Dưới ánh mắt chăm chú của người thân, anh dùng đôi tay hơi run run quẹt một que diêm, trịnh trọng châm lên ngọn lửa hy vọng ấy.

Buổi sáng hôm đó, trên bầu trời thôn Song Thủy, bốc lên một làn khói dày đặc…