Chương 22
Tôn Thiếu An hoàn toàn không ngờ công xã đột nhiên cử người đến đo đạc lại đất trồng cám heo của đội họ. Mấy hôm trước, anh đã nghe Phúc Cao nói rằng bác của anh ta ở Đại Trang Hà vì chia thêm đất trồng cám heo cho xã viên mà bị công xã gọi lên thẩm vấn cả một ngày. Trong lòng Thiếu An vẫn canh cánh lo lắng chuyện này, nhưng cuối cùng thì điều anh lo cũng xảy ra. Lúc công xã mới cử người đến, anh còn tưởng là có ai trong đội đi tố cáo, nhưng sau lại nghe nói công xã đang tổng kiểm tra đất trồng cám heo ở các đội khác nữa, nên cũng chỉ còn biết gồng mình chờ bị xử lý thôi.
Những năm qua, cứ nhắc đến chuyện nuôi heo là người ta lại thấy rầu rĩ. Trước kia, hằng năm công xã theo yêu cầu của nhà nước, cưỡng chế phân bổ chỉ tiêu giao heo sống cho từng đại đội. Dù không phân biệt lý lẽ thế nào, cuối năm mỗi hai hộ dân phải nộp một con heo mập đúng tiêu chuẩn. Mà nuôi được một con heo béo thì phải tốn biết bao nhiêu lương thực! Những năm đó, đến người còn không đủ gạo ăn, làm sao có thức ăn mà nuôi heo? Nhưng không còn cách nào khác, nhà nước cần thịt heo để viện trợ cho thế giới thứ ba, nhiệm vụ hằng năm nhất định phải hoàn thành. Nhà nào không hoàn thành chỉ tiêu thì sẽ bị cắt khẩu phần lương thực.
Không ai có khả năng nuôi nổi heo. Đội không còn cách nào, đành phải để Điền Phúc Đường đứng ra thuyết phục công xã xem có thể dùng cừu của đội sản xuất để thay thế heo hay không. Công xã nể tình, đồng ý, nhưng điều kiện là phải dùng cừu lông mịn để thay thế. Một năm trôi qua, cả làng gần như tuyệt chủng đàn cừu lông mịn.
Xem ra cách đó không thể lâu dài, vẫn phải giao cho từng hộ gia đình nuôi heo.
Cán bộ đại đội và tiểu đội họp suốt ngày đêm mà vẫn không thể áp đặt được cho một hộ nào. Kim Tuấn Sơn đề xuất: “Hay là cán bộ đội mình làm gương trước, mỗi người nuôi một con heo, sau đó sẽ vận động xã viên theo.” Nhưng các cán bộ khác liền cười nhạo anh ta: “Anh có bản lĩnh thì tự làm cuộc cách mạng đó đi! Chúng tôi không có! Hằng đêm họp hành thức trắng mắt đã đủ mệt rồi, lại còn dẫn đầu chuyện này nữa! Anh muốn làm thì cứ làm đi! Tốt nhất là nhà anh Kim Tuấn Sơn mở luôn trại nuôi heo, gánh luôn chỉ tiêu của cả đội cho rồi!”
Kim Tuấn Sơn lập tức cứng họng, lủi vào trong bếp của đại đội, không dám lên tiếng nữa.
Cuối cùng vẫn là Tôn Ngọc Đình nghĩ ra cách: đề xuất dùng phương pháp “bốc thăm giấy vo tròn” để giải quyết chuyện này. Mọi người nghĩ tới nghĩ lui, không còn cách nào hay hơn, đành phải chấp nhận đề xuất của Tôn Ngọc Đình.
Lúc bốc thăm, cả làng chẳng khác nào đang tham gia một buổi bói toán tập thể. Ai cũng lo lắng bất an, tay run rẩy, như đang bốc lấy số phận của mình, thò tay vào cái bát sành đen xì chẳng mấy lành lành trên bàn lò sưởi của văn phòng đại đội, mỗi người bốc ra một viên giấy nhỏ đã được vò tròn. Có người mở ra, cười đến chảy cả nước mũi mà không buồn lau; có người thì mặt mũi như bị phủ sương đen ngay tức khắc; thậm chí có người ôm đầu khóc òa tại chỗ, nước mắt nước mũi ròng ròng.
Tôn Ngọc Đình – người nghĩ ra “kế sách tuyệt vời” này, gần như năm nào cũng “bốc trúng” một con heo, về nhà thường bị Hà Phượng Anh mắng cho một trận như tát nước.
Đến cuối năm, người nông dân vất vả lắm mới nuôi được heo béo, rồi lại phải lùa đến Thạch Cát Tiết để giao nộp. Để đạt tiêu chuẩn cân nặng, vào ngày giao heo, mỗi nhà đều cho heo ăn uống no nê một bữa — biết đâu chỉ vài cân lương thực lại quyết định được con heo có đủ tiêu chuẩn hay không. Nhưng, cơ quan thu mua heo gồm trạm lương thực công xã và vài đầu bếp của nhà ăn Thạch Cát Tiết đâu phải hạng tay mơ. Họ biết rõ mánh khóe nhỏ nhoi của dân chúng, nên quyết định sau khi lùa heo tới thì chưa cân ngay, mà dồn tất cả lại một chỗ, đợi cho chúng đi tiểu xong rồi mới cân. Thế là người giao heo không chỉ mất thêm vài cân lương thực, mà còn tốn nửa ngày công vô ích. Những ngày ấy, khắp Thạch Cát Tiết toàn là những nông dân mặt mày rầu rĩ ngồi rạp xuống đất. Họ thật sự hết cách, lại bắt đầu nghĩ đủ mọi cách để hối lộ người thu heo, còn mấy người thu heo thì nhờ đó mà kiếm được không ít tiền đút túi.
Cho đến sau này, chỉ tiêu giao heo sống thực sự không thể hoàn thành nổi nữa. Huyện không còn cách nào, đành ra chính sách: ai nuôi heo thì được trợ cấp 150 cân cao lương.
Nông dân nghe thế thì vui mừng khôn xiết, vì 150 cân cao lương không phải con số nhỏ — gần bằng khẩu phần lương thực một năm của một người. Nếu cứ nuôi theo cách như những năm trước, chắc chắn một con heo có thể tiết kiệm được khá nhiều lương thực. Thế là, mọi người lại đổ xô tranh nhau nhận phần nuôi heo. Cán bộ đại đội và tiểu đội họp cả đêm cũng không sao phân bổ hết suất. Cuối cùng, lại phải quay về dùng “cách Tôn Ngọc Đình” — mọi người lại như đang gieo quẻ số mệnh, lần lượt thò tay vào cái bát sành đen khiến ai nấy thèm thuồng ấy, bốc những quả giấy vo tròn. Người bốc trúng phần nuôi heo thì vui mừng hớn hở, kẻ không bốc được thì mặt mày ủ ê. Tiếc thay, lần này chính đồng chí Ngọc Đình lại không may bốc hụt, tối về vẫn bị Hà Phượng Anh chửi cho một trận nên thân.
Thế nhưng, những người nuôi heo lại vui mừng quá sớm. Vì được trợ cấp lương thực, tiêu chuẩn thu mua của nhà nước cũng được nâng cao, những con heo nuôi theo “cách cũ” của mấy năm trước không con nào đủ tiêu chuẩn giao nộp, cuối cùng đành phải lùa về, đem toàn bộ số cao lương tiết kiệm được bù vào cho heo ăn, mới miễn cưỡng có thể đem nộp ở Thạch Cát Tiết.
Từ đó về sau, người ta nghe đến chữ “heo” là sợ xanh mặt, chẳng ai dám đụng đến cái “ông tổ” này nữa. Suốt một năm, chỉ tiêu giao heo sống đã trở thành cơn khủng hoảng của cả khu vực. Khu Hoàng Nguyên cũng không còn cách, đành phải đề ra một “chính sách địa phương”: mỗi hộ được chia không quá 4 phân đất để trồng cám heo, mong giải quyết vấn đề từ gốc rễ.
Khi chia đất trồng cám heo, Tôn Thiếu An suy nghĩ: ngoài ruộng trồng trọt của đội, vẫn còn khá nhiều đất hoang, hay là dứt khoát chia hết những đất bỏ hoang ấy cho xã viên, như vậy sẽ không ảnh hưởng đến diện tích canh tác hiện tại của đội. Nhưng những đất hoang ấy thì không liền mạch, chỗ thì sườn dốc, chỗ thì ven khe, manh mún rải rác, không thể đo đạc chính xác được, chỉ có thể ước lượng bằng mắt thôi. Ý kiến này không có ai trong đội phản đối. Vì ai cũng biết, đo “bằng mắt” thì đất chỉ có thể nhiều thêm chứ không ít đi. Tôn Thiếu An cũng hiểu rõ điều đó. Anh chính là muốn nhân cơ hội này, âm thầm mở rộng đất tự canh cho xã viên. Trong thời buổi này, đất cá nhân chỉ cần thêm một phân cũng có thể giải quyết chuyện lớn của cả nhà — trên những mảnh đất được chăm sóc tỉ mỉ này, có khi một gò đất nhỏ thôi cũng có thể đem lại thu nhập bằng cả đống đất tốt của đội. Người ta đã đói đến điên rồi, ai mà không muốn nhân cơ hội này để tăng thêm chút lợi ích cho mình?
Nhưng ai nấy đều hiểu, chuyện này phải giấu kín không cho Bí thư Điền Phúc Đường và ông chú Hai của Tôn Thiếu An biết — hai “nhà cách mạng” này đều đang ở trong đội.
Nhân lúc tránh được hai người kia đi họp, Thiếu An liền cùng mọi người chia đất xong xuôi. Điền Phúc Đường và Tôn Ngọc Đình cũng được “hưởng sái”, chỉ là bản thân họ không biết mà thôi. Có lẽ sau này khi cày cấy, họ sẽ cảm thấy như được chia nhiều hơn, nhưng rồi cũng mắt nhắm mắt mở mà bỏ qua — dẫu cả ngày họ kêu gọi phê phán chủ nghĩa tư bản, nhưng với lợi ích thiết thực thì chưa bao giờ từ chối… Đúng là như vậy. Thực ra, Điền Phúc Đường đã sớm nhận ra đất trồng cám heo ở đội mình “có vấn đề”, nhưng ông ta luôn giả vờ như không biết. Ông ta là người có đầu óc, hiểu rằng chuyện này được toàn dân ủng hộ, nếu ông ta ra mặt chỉnh đốn thì chắc chắn sẽ chọc giận lòng dân, ông ta đâu cần làm chuyện dại dột đó! Hơn nữa, chính ông cũng được “thơm lây”, chống lại mọi người khác gì chống lại chính mình? Nói rộng ra, nếu chẳng may việc này bị người khác tố cáo, thì lúc chia đất ông Điền Phúc Đường lại không có mặt ở nhà, đến lúc đó ông ta vẫn còn nắm quyền chỉ trích trong tay!
Thế nhưng hôm đó, sau khi từ huyện về, tình cờ gặp Điền Phúc Cao ở Thạch Cát Tiết, nghe chuyện của ông bác Phúc Cao, Điền Phúc Đường bỗng nổi lòng tính toán, cảm thấy mình vừa tìm được một cái cớ hay để khiến Tôn Thiếu An rơi vào thế khó xử. Thế là ông ta liền quay xe đạp, đến công xã một chuyến, hé lộ với Từ Trị Công, bảo ông này đi kiểm tra thử đất trồng cám heo ở thôn họ. Đồng thời ông còn nhắc nhở Chủ nhiệm Từ: đừng chỉ kiểm tra đội của họ, mà các đội khác cũng nên kiểm, kẻo người ta lại nghi là ông Điền Phúc Đường đi tố cáo.
Sau khi Điền Phúc Đường đi nước cờ “cao tay” này, trong lòng cũng có đôi chút mâu thuẫn. Một mặt, ông ta bực tức với Thiếu An, muốn để thằng nhỏ chịu đòn một trận, xám mặt một thời gian, như vậy mới không còn tâm trí mà lả lơi với Nhuận Diệp nữa. Nhưng mặt khác, ông ta lại cảm thấy làm vậy có phần không phải. Dù gì cũng là việc trái với lương tâm, chẳng khác gì thả một con sâu vào lòng, khiến tâm can không yên.
Nhưng ông lại nghĩ: “Anh hùng làm việc không hối hận!” Đã làm rồi thì không cần nghĩ nhiều nữa! Cũng tốt, để cho Tôn Thiếu An “lộn xộn” vài ngày! Tốt nhất là đội trưởng đội hai Kim Tuấn Vũ cũng có mở rộng đất trồng cám heo, để công xã điều tra ra, gom hai đứa chết tiệt đó vào một chỗ mà trị một thể, xem chúng còn dám chống đối với ta — Điền Phúc Đường nữa không!
Kết quả điều tra tổng kiểm tra của công xã đã rõ ràng: toàn công xã có năm đội sản xuất đã mở rộng đất trồng cám heo. Điều khiến Điền Phúc Đường tiếc nuối là đội hai không hề mở rộng — tên Kim Tuấn Vũ này rốt cuộc lớn tuổi hơn, tâm cơ cũng sâu hơn Thiếu An, không để bị tóm đuôi.
Không ngờ ở công xã Thạch Cát Tiết lại xảy ra hiện tượng mở rộng đất tự canh! Việc này lập tức thu hút sự chú ý của cấp huyện. Chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng huyện, Phùng Thế Khoan, đích thân gọi điện cho Bạch Minh Xuyên và Từ Trị Công, nói rằng không chỉ phải thu hồi phần đất đã mở rộng, mà còn phải tổ chức đại hội quần chúng trong toàn công xã để phê phán năm đội trưởng này.
Ban đầu Bạch Minh Xuyên chỉ định thu hồi phần đất đó về cho tập thể, cho mấy đội trưởng kiểm điểm tại đại đội là xong, nhưng một khi Chủ nhiệm Phùng đã đích thân gọi điện, thì rõ ràng không thể không tổ chức đại hội phê phán. Ông ta liền nghĩ ra một cách dung hòa: không tổ chức đại hội quần chúng toàn công xã, mà chỉ họp nửa ngày “hội nghị ba cán bộ”.
Do hội nghị quần chúng quá rườm rà phức tạp, Từ Trị Công cũng đồng ý. Nhưng ông ta lại đề xuất: hội nghị phê phán này phải được phát thanh trực tiếp qua loa hữu tuyến đến toàn công xã. Bạch Minh Xuyên không tìm được lý do để phản đối, đành phải chấp thuận.
Hôm đó đúng phiên chợ, toàn bộ cán bộ chuyên trách trong công xã, các đại đội và đội sản xuất chính đều được triệu tập về sân trụ sở công xã, để phê phán năm vị “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa” là năm đội trưởng. Tuy không phải đại hội quần chúng, nhưng khí thế cũng chẳng nhỏ, sân công xã đen kịt người ngồi. Hội nghị phê phán do Từ Trị Công chủ trì, Tôn Thiếu An cùng bốn người khác đứng trước bục. Người phát biểu luân phiên bước lên đọc bài phát biểu đã chuẩn bị sẵn qua chiếc micro bọc một tấm lụa đỏ — vì dùng nhiều lần, lớp vải đỏ đã bị người ta gõ thử âm thanh đến rách tả tơi. Lúc này, ở trên đường phố Thạch Cát Tiết và trong từng nhà của toàn công xã, loa phát thanh đều đang truyền trực tiếp không khí hội nghị phê phán này. Tôn Thiếu An và bốn người kia lập tức trở thành “người nổi tiếng” trong toàn công xã. Khắp nơi đều đang bàn tán về họ — từ bản thân đến người nhà, thậm chí cả ba đời tổ tiên cũng bị lôi ra nói.
Tại hội trường, Điền Phúc Đường ngồi ở một góc không ai chú ý, cúi đầu hít điếu thuốc trên tay. Nếu là thường ngày, gặp buổi họp kiểu này, ông ta nhất định sẽ ngồi ở chỗ nổi bật nhất. Nhưng hôm nay, ông dường như sợ bị người ta nhìn thấy, càng không muốn ánh mắt mình chạm phải ánh mắt của Thiếu An.
Tôn Ngọc Đình ngồi ở một góc khác. Hôm nay ông ta được công xã sắp xếp để phát biểu phê phán. Trước đây mỗi lần công xã tổ chức đại hội, Ngọc Đình thường xuyên được chọn là một trong những người phát biểu. Nhưng hôm nay, ông ta vô cùng khó xử, vì cháu ruột của mình đang đứng trước bục bị phê phán. Thế nhưng không còn cách nào khác. Trình độ phát biểu trong các cuộc họp lớn của ông đã nổi tiếng khắp công xã, lãnh đạo rất coi trọng, ông không thể từ chối, đành phải lựa chọn cách mạng thay vì người thân. Nhưng ông tuyệt đối sẽ không viết tên cháu mình vào bản phát biểu phê phán. Ông hồi hộp chờ đợi Từ Trị Công tuyên bố đến lượt mình lên phát biểu. Thường thì trong những dịp như vậy, ông rất phấn khích. Nhưng hôm nay ông cảm thấy còn khó chịu hơn cả người đang bị phê phán đứng trên bục. Thỉnh thoảng ông lại đưa chiếc khăn bẩn trên đầu lau mồ hôi trên mặt.
Thư ký công xã Lưu Căn Dân là bạn học cùng lớp hồi tiểu học với Thiếu An, cũng là bạn thân, lúc này đang ngồi ở một cái bàn bên cạnh ghi chép, vẻ mặt lộ rõ sự khó xử và lúng túng — anh không thể bảo vệ được người bạn của mình.
Lúc này, Tôn Ngọc Hậu đang ngồi xổm ở một góc phố Thạch Cát Tiết, cúi đầu hút thuốc lào. Cô con gái út của ông, Lan Hương, đang đứng bên cạnh, dựa vào một cột điện mà âm thầm khóc. Tôn Ngọc Hậu chẳng còn tâm trí để an ủi con gái, chỉ tập trung lắng nghe loa phát thanh đang phát những lời người ta nói. Mỗi khi nghe thấy tên Thiếu An, tim ông như nghẹn lên đến cổ họng. Ông không thể đoán được chính quyền sẽ xử lý con trai mình ra sao. Liệu có bị đưa đi “lao cải” giống như lần trước xử lý con rể ông không? Ôi chao! Biết đâu còn nặng hơn cả “lao cải”! Con rể ông chỉ buôn bán mấy gói thuốc chuột, còn Thiếu An thì lại “đi con đường tư bản chủ nghĩa”, “tội” có khi còn nặng hơn!
Ông ngồi xổm ở đó, tay run run nâng ống điếu thuốc lào, hoàn toàn không có chút khả năng nào để chống đỡ đòn đánh của số phận. Tinh thần ông đã không thể chịu nổi áp lực quá lớn như vậy, ông thực sự muốn chạy đến nhà con gái ở làng Quán Tử, nuốt hết chỗ thuốc chuột mà con rể còn để lại, rồi nhắm mắt mà ngủ vùi trong lòng đất... Nhưng nghĩ tới nghĩ lui, ông vẫn phải sống. Mấy đứa con của ông còn chưa thành gia lập nghiệp, con gái lớn Lan Hoa tuy đã có chồng nhưng cuộc sống nghèo nát đến mức không thể sống nổi. Ông còn sống, thì vẫn có thể giúp các con phần nào...
Tôn Thiếu An không hề biết cha mình lúc này đang ngồi co ro nơi đầu đường ở Thạch Cát Tiết. Trước khi rời nhà, anh đã căn dặn nhiều lần không cho cha đến công xã. Anh sợ ông cụ chịu cú sốc quá lớn — vì chuyện của anh rể vừa lắng xuống chưa được nửa năm, giờ lại đến lượt anh. Lúc này, Thiếu An đứng trước bục, tai gần như không còn nghe rõ người ta đang phê phán gì mình nữa. Anh chỉ đang không ngừng suy nghĩ về nguyên nhân và quá trình dẫn đến sự việc này...
Ngay từ đầu, anh đã đoán là có ai đó trong làng đi tố cáo lên công xã. Ban đầu anh nghi là người của đội hai. Nhưng rồi lại nghĩ, chuyện này đã lặng lẽ hơn nửa năm, sao đúng lúc này mới đi tố cáo? Nếu người ở Kim Gia Loan định báo cáo thì đã báo từ lâu rồi, đâu cần đợi đến bây giờ. Vậy còn người trong đội mình? Suy đi tính lại cũng không hợp lý. Vì ai cũng được hưởng lợi, tố cáo người khác chẳng khác nào tự tố mình — anh Tôn Thiếu An có thể bị phê phán, nhưng đất của mỗi nhà cũng phải bị thu hồi. Không ai là không xót ruột vì mấy phần đất ấy!
Mãi đến khi biết công xã tổ chức kiểm tra đồng loạt các đội về đất trồng cám heo, anh mới hiểu rằng đây không phải do người trong đội tố cáo, mà do các vấn đề tương tự ở các thôn khác bị phát hiện trước, rồi liên lụy đến đội họ.
Nhưng, hôm qua, khi công xã thông báo anh phải đến để bị phê phán, thì phó đội trưởng Điền Phúc Cao đã tìm đến anh, kể rõ chuyện hôm nọ ở Thạch Cát Tiết tình cờ gặp Điền Phúc Đường như thế nào. Nghe xong, anh mới gắn kết sự việc này với Điền Phúc Đường lại.
Bây giờ anh mới thực sự hiểu rõ: chính Điền Phúc Đường là người đã đẩy anh lên cái bục này. Đúng vậy, anh rất hiểu cách làm người và hành sự của Điền Phúc Đường, cũng hiểu rõ “nước cờ” của người đàn ông mạnh mẽ này. Từ lần đó ông ta thấy anh và Nhuận Diệp ngồi với nhau ở khúc sông, Tôn Thiếu An đã biết, sớm muộn gì Điền Phúc Đường cũng sẽ đi một nước “mã” vòng vèo để giáng một đòn lên mình. Loại “cờ” mà Điền Phúc Đường đánh, thường hay dùng “mã” chứ không dùng “xe”, vì thế rất khó phòng bị. Anh không ngờ rằng ông ta lại ra tay nhanh và độc đến thế.
Thiếu An đứng trên bục, dù đầu cúi xuống, nhưng anh vẫn dùng khóe mắt tìm kiếm trong đám đông và bắt gặp được Điền Phúc Đường. Anh thấy ông ta ngồi ở một góc khuất như thế, trong lòng lại càng rõ ràng hơn. Đúng vậy, ông ấy có tật giật mình, không dám đối diện với anh. Điều đó cũng an ủi anh phần nào: theo một nghĩa nào đó, cả anh và Điền Phúc Đường đều đang bị phê phán; anh chịu sự phê phán của tư tưởng, còn ông ta chịu sự phê phán của lương tâm.
Sau khi đã xác nhận được “kẻ phản bội” là ai, Tôn Thiếu An dứt khoát không nghĩ thêm về chuyện này nữa. Dù sao đi nữa, Điền Phúc Đường vẫn là Điền Phúc Đường. Ông ta không như vậy thì đã không phải là Điền Phúc Đường. Không ai có thể thay đổi được con người ông ta, thậm chí chính ông ta cũng không thể thay đổi chính mình.
Nói đi cũng phải nói lại, Thiếu An hiểu rằng Điền Phúc Đường vẫn còn để bụng chuyện anh và Nhuận Diệp gặp nhau hôm đó. Nghĩ cho công bằng, hành động "trả thù" như vậy cũng là điều có thể lý giải. Phải rồi, một gia đình có thể diện như vậy, con gái lại là cán bộ trẻ đẹp như hoa, sao có thể để một kẻ nông dân tay lấm chân bùn như anh “chạm vào” được chứ?
Điều khiến Thiếu An cảm thấy an ủi lúc này là: anh đã chọn thái độ hoàn toàn đúng đắn trong việc theo đuổi Nhuận Diệp. Và chính Điền Phúc Đường giờ đây lại dùng một thứ logic sắt đá để một lần nữa chứng minh rằng chuyện đó là hoàn toàn không thể…
Nhưng điều khiến anh cảm thấy khó chịu và chán nản là: buổi phê phán này sẽ khiến anh bị bôi nhọ khắp công xã. Từ giờ trở đi đừng mơ tưởng gì đến việc tìm vợ trong vùng này nữa. Dù có mang sính lễ gấp đôi, cũng không ai muốn gả con gái cho một kẻ đã mất hết danh dự!
Điều khiến anh khó chịu hơn nữa là: anh lo chuyện này sẽ ảnh hưởng đến tương lai của Thiếu Bình và Lan Hương. Anh thì dù sao cũng đã là nông dân, chẳng sợ gì, chẳng lẽ ngay cả cây cuốc cũng không còn cầm được nữa sao? Nhưng Thiếu Bình và Lan Hương thì khác. Sau này nếu có cơ hội ra ngoài lập thân, liệu chuyện này có ảnh hưởng gì đến họ theo kiểu “chính trị” không? Nếu quả thực ảnh hưởng đến hai người ấy, thì cả đời này anh cũng sẽ sống trong day dứt và đau khổ...
Tôn Thiếu An trằn trọc suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện kia, cuối cùng cũng gắng gượng chịu đựng cho đến khi buổi phê phán kết thúc giữa tiếng ồn ào náo loạn.
May mắn là, sau khi bị phê phán thì mọi chuyện cũng kết thúc. Chủ nhiệm công xã Bạch Minh Xuyên lúc kết thúc còn nói vài lời động viên năm người bọn họ, bảo họ đừng mang gánh nặng trong lòng, hãy trở về chăm lo sản xuất, lấy công chuộc tội...
Đợi mọi người giải tán hết, Thiếu An mới uể oải rời khỏi sân công xã, bước ra con phố Thạch Cát Tiết.
Chợ trên phố cũng gần tan. Khi Thiếu An đi qua phố, không ngừng cảm thấy có người chỉ trỏ bàn tán về mình.
Bỗng nhiên anh nhìn thấy cha và em gái đang từ một góc phố đi về phía anh. Anh nhanh chóng bước đến trước họ và nói:
“Cha với em đến đây làm gì? Con không sao đâu…”
Cha anh nói: “Ở nhà cha nóng ruột quá ngồi không yên, phải đến xem người ta rốt cuộc xử lý con thế nào…”
Thiếu An nói với cha và em gái: “Xong hết rồi, sẽ không có chuyện gì nữa đâu… Cha với em đừng lo. Hai người cứ về trước đi. Con còn phải làm ít việc cho đội, lát nữa con về ngay.”
Tôn Ngọc Hậu đành phải cùng Lan Hương quay về trước. Trước khi đi, ông u ám nói với con trai: “Con về sớm một chút nhé…”
“Vâng.” Thiếu An gật đầu với cha và em gái, rồi quay người, một mình đi về phía con phố sau của Thạch Cát Tiết.