Chương 41
Trong mấy ngày bà nội ốm, Tôn Thiếu An luôn bôn ba ở huyện lỵ Nguyên Tây, vì vậy, anh hoàn toàn không hay biết chút gì về những việc xảy ra trong nhà.
Thực ra, dù có ở nhà, anh cũng không thể như trước kia, vì một chút bệnh tình của người già mà có thể buông bỏ hết mọi việc.
Không phải là anh không còn yêu thương bà nội — mà là thực sự bận không xuể! Máy làm gạch vừa khởi động, anh cũng bắt đầu quay cuồng theo nó. Các công đoạn sản xuất, bảy tám công nhân thuê, còn phải đích thân chạy đi lo việc tiêu thụ, cứ như một mớ hỗn loạn. Một anh nông dân trình độ tiểu học, bỗng nhiên gây dựng một sự nghiệp lớn như vậy, sự bận rộn và căng thẳng không lời nào tả xiết. Dù anh thuê một người thợ Hà Nam với mức lương một trăm năm mươi đồng mỗi tháng để quản lý quy trình sản xuất của xưởng gạch, nhưng anh mới là ông chủ thật sự; anh không thể không dồn hết sức lực vào hiện trường sản xuất — làm tốt làm xấu cuối cùng cũng là việc của anh, chẳng can hệ gì đến người thợ Hà Nam kia! Ngoài ra, anh còn phải thường xuyên chạy tới chạy lui giữa hợp tác xã tín dụng, phòng thuế, công ty vận tải và cả phía người mua.
Khi anh không có nhà, vợ anh liền trở thành người quản lý xưởng gạch. Tội nghiệp Tú Liên, ngoài việc nấu cơm cho bảy tám người, còn phải đếm gạch cho người mua, viết hóa đơn, kiêm luôn kế toán — bao nhiêu việc đó đã đủ khiến cô khổ sở rồi.
Hai vợ chồng trẻ không còn khả năng đêm đêm nằm trong một chăn ôm nhau mà ngủ — họ thường vài ba ngày cũng chẳng thấy mặt nhau. Hổ Con gần như luôn sống với ông bà nội; họ chẳng còn thời gian chăm sóc đứa con cưng của mình.
Tất nhiên, họ cố gắng đến thế là bởi vì cuộc sống bỗng dưng tràn đầy hy vọng lớn lao. Có hy vọng, con người sẽ sinh ra nhiệt huyết, có thể không ngoảnh đầu mà trả giá vì nó; trong quá trình đó, họ mới thực sự cảm nhận được ý nghĩa của đời người. Đời người là gì? Đời người chính là đấu tranh không ngừng! Chỉ khi xác định được mục tiêu và trong quá trình phấn đấu cảm thấy nỗ lực của mình không uổng phí, cuộc sống như vậy mới là đầy đủ, tinh thần cũng sẽ mãi mãi tươi trẻ!
Hiện tại, dù là một nông dân như Tôn Thiếu An không thể diễn đạt được suy nghĩ ấy bằng lời, nhưng tất cả điều đó, anh đều cảm nhận được rất thực. Ở vùng quê này, anh vốn không phải hạng người tầm thường; chỉ là trong những năm dài trước kia, những việc anh muốn làm thì không được làm, những việc không muốn làm lại không thể không làm.
Giờ thì tốt rồi, chính sách thay đổi, anh cuối cùng cũng có thể buông cương cho ngựa chạy!
Hai tháng mấy nay, dù Thiếu An và Tú Liên mệt mỏi đến nỗi như sống dở chết dở nhưng trong lòng hai vợ chồng chưa bao giờ thoải mái như bây giờ. Hai người có trình độ tiểu học, đã ngồi trên chiếc giường đất nhỏ trong nhà mới, đếm đi đếm lại bằng mười ngón tay để tính toán tình hình năm nay. Nếu không có gì sơ suất, sau khi trả hết nợ vay vào cuối năm, họ sẽ còn dư ra hai ba nghìn đồng — điều quan trọng hơn là, máy làm gạch và toàn bộ tài sản của xưởng gạch sẽ thuộc về họ hoàn toàn!
Cùng với sự cải cách và mở cửa của toàn xã hội, đất nước nhanh chóng bước vào thời kỳ xây dựng quy mô lớn. Từ nông thôn đến các thành phố lớn nhỏ, các công trình kiến trúc mọc lên như nấm sau mưa. Có cái thuộc quy hoạch, có cái lại xây dựng mù quáng. Cả Trung Quốc dường như trở thành một công trường xây dựng khổng lồ. Trong hoàn cảnh như vậy, các loại vật liệu xây dựng đều trở thành hàng nóng. Gỗ tăng giá, thép tăng giá, còn gạch ngói thì luôn cung không đủ cầu! Đặc biệt là thép — vật liệu quý giá — thì giống như chất dinh dưỡng trong thời kỳ khốn khó, bị kiểm soát nghiêm ngặt. Càng kiểm soát, càng thiếu hụt, lỗ hổng lại càng nhiều; các mối quan hệ ngầm đều mở toang, nhiều khâu xuất hiện kẻ xấu phát tài phi pháp — báo chí không ngừng đưa tin về những quan chức tham tiền phải vào tù!
Tôn Thiếu An mở xưởng gạch, quả thực là đúng lúc — anh không phải lo gạch của mình không có đầu ra.
Nhưng, muốn biến mỗi viên gạch thành tiền mặt, vẫn phải tốn không ít công sức! Nếu bán theo giá phổ biến lúc bấy giờ thì cũng nhàn — lúc đầu anh chính là bán như thế. Nhưng một lần, anh gặp lại Hồ Vĩnh Hợp, “hộ nổi bật” từng ở chung phòng trong cuộc họp “vinh danh làm giàu”, người đó đã cười nhạo kiểu làm ăn đơn giản của anh.
Hồ Vĩnh Hợp nói với anh, bây giờ làm ăn đâu có ai đầu óc ngu ngốc như anh! Hắn dạy Thiếu An rằng: đầu óc phải linh hoạt hơn! Anh mời người mua vào nhà ăn dùng bữa, mỗi viên gạch có thể bán cao thêm một hai phần hào!
Tôn Thiếu An kinh ngạc không ít. Anh liền mời “người truyền đạo” ấy đến nhà ăn quốc doanh huyện Nguyên Tây ăn một bữa. Bữa ăn đó khiến hai người làm ăn trở thành bạn. Sau ba ly rượu, tay láu cá Hồ Vĩnh Hợp lại truyền thêm cho anh không ít mánh khóe.
Từ đó về sau, Tôn Thiếu An trở nên “tỉnh táo” hơn nhiều. Làm thử một lần theo lời dạy của Hồ Vĩnh Hợp, quả nhiên hiệu nghiệm — vốn dĩ mỗi viên gạch chỉ bán được ba phân tám, lần này bán được ba phân chín. Một viên gạch cao hơn một phần hào, cộng lại là một khoản không nhỏ; mời một hai người ăn bữa cơm thì tốn bao nhiêu chứ!
Tất nhiên, là một nông dân chân chất, lúc đầu làm chuyện này, anh vẫn thấy trong lòng bồn chồn, chẳng yên tâm. Sau này anh mới hiểu, không làm vậy thì không được! Có những người nhà nước không chỉ không để tâm đến việc đãi khách tặng quà, mà còn chủ động gợi ý hoặc thẳng thừng đòi anh “ra máu”. Đây là một kiểu “giao dịch hai bên cùng có lợi”, đã vậy người nhà nước còn không sợ, một nông dân thì có gì mà không dám “hưởng lộc”?
Một sự thật đáng buồn là, rất nhiều nông dân quê mùa, ở mức độ lớn, chính vì những tệ nạn trong các cơ quan công quyền và sự lạm quyền của một số cán bộ mà trở thành những người “thành thạo” trong làm ăn. Họ xách túi da giả màu đen, mang thuốc lá rượu ngon, từ quê lên phố, trông thì chậm chạp thật thà, nhưng khôn ngoan không bỏ qua bất kỳ “khe hở” nào có thể mở được.
Tuy nhiên, so với những tay buôn như Hồ Vĩnh Hợp, Tôn Thiếu An vẫn chưa “khai thông” được bao nhiêu. Anh chỉ biết mời người ta ăn một bữa cơm ở nhà ăn — đó là cách cảm ơn của một người quê mùa nhận được lợi lộc.
Nói ra thì, trên người Tôn Thiếu An cũng có vài thay đổi rõ rệt. Ví dụ như trang phục bây giờ của anh, không còn như xưa. Hiện tại, chỉ cần ra ngoài làm việc, anh sẽ thay bộ “lễ phục”: bên trong là đồ lót vải đỏ sát người, bên ngoài là bộ đồng phục pha len rẻ tiền; chân đi giày thể thao hiệu “Lực Sĩ”; đầu đội mũ kaki xanh đậm, tay xách túi da giả màu đen (cũng có thể đeo chéo sau lưng như cặp lớn). Tất nhiên, cách ăn mặc này nhìn vào vẫn là quê mùa đối với người thành phố, nhưng ở nông thôn thì đã gọi là “Tây” rồi. Tú Liên nhất quyết bắt anh phải cải tổ diện mạo như thế. Thiếu An cũng cảm thấy, đến thành phố làm việc, mặc đồ dân quê thực sự là không vào nổi cửa. Mặc bộ đồ mới này, ban đầu thấy hơi gượng, về sau cũng dần quen rồi...
Hiện tại, Tôn Thiếu An đang mặc bộ quần áo ấy, ngồi trong phòng ăn nhỏ của nhà ăn quốc doanh huyện Nguyên Tây.
Anh đang ở đây mời khách ăn cơm — dĩ nhiên là để bán gạch của mình.
Khách là giám đốc và phó giám đốc công ty bách hóa huyện Nguyên Tây cùng cán bộ phụ trách xây dựng cơ bản của đơn vị này. Phó giám đốc thì ta đã quen rồi — chính là cha của cô gái tật nguyền Hầu Ngọc Anh, ông Hầu Sinh Tài. Chính vì năm đó Thiếu Bình từng cứu con gái của Hầu Sinh Tài trong trận lũ, thương vụ lần này giúp Tôn Thiếu An kiếm được không ít tiền. Công ty bách hóa muốn xây một tòa nhà ba tầng làm cửa hàng, cần rất nhiều gạch. Nhiều xưởng gạch đang cạnh tranh giành lấy khách hàng lớn này. Khi phó giám đốc phụ trách xây dựng cơ bản Hầu Sinh Tài biết Thiếu An là anh trai của Thiếu Bình, ông lập tức không do dự mà dành phần lợi cho anh trước; hơn nữa còn trả giá mỗi viên gạch là bốn phân — cao hơn giá thị trường lúc đó hai phần hào. Lý do của Hầu Sinh Tài là, gạch của Thiếu An chất lượng tốt. Dĩ nhiên, gạch của Thiếu An quả thật tốt, hệ số áp lực đều trên một trăm (trên bảy mươi lăm đã là tiêu chuẩn quốc gia).
Để cảm ơn giám đốc Hầu hào phóng, Thiếu An đã bày bữa tiệc này ở phòng ăn nhỏ của nhà ăn quốc doanh huyện. Xét về tiêu chuẩn của Nguyên Tây, bàn tiệc này đã thuộc dạng cao cấp nhất rồi. Trên bàn có sơn hào hải vị, còn có đủ loại rượu. Thiếu An niềm nở gắp thức ăn mời rượu ba vị khách kia, cố gắng tỏ ra có phong thái đàng hoàng; cuộc sống đã buộc một người quê mùa khép kín phải mở lòng ra với thế giới bên ngoài.
Trong lúc ăn uống vui vẻ, Tôn Thiếu An bỗng vô cùng cảm khái nhớ lại, năm xưa cũng chính ở nơi này, anh và Nhuận Diệp từng cùng nhau ăn một bữa cơm. Bữa ấy là do Nhuận Diệp mời anh. Khi đó, anh lúng túng và hoảng hốt đến nhường nào! Ai có thể ngờ được, hôm nay, chính anh lại có thể ở nơi này, bày tiệc linh đình mời người khác dùng bữa?
Anh không khỏi nghĩ đến Nhuận Diệp — mấy năm nay, anh rất ít khi nhớ đến người từng yêu anh ấy. Với một nông dân sa vào biết bao mâu thuẫn rối rắm trong cuộc sống thực tế, đâu còn rảnh rỗi để khơi dậy những hoài niệm lãng mạn. Nhưng hễ đã nhớ đến người ấy, anh lại nhớ đến cả một đoạn đời mình; không chỉ là mối quan hệ năm xưa giữa anh và Nhuận Diệp, mà còn là khoảng thời gian gian khổ tột cùng mà anh cùng cả nhà từng trải qua…
Anh đột nhiên trở nên trầm lặng khi đang ngồi trên bàn ăn. Lúc này, anh đau đớn nghĩ đến tình hình hiện tại của những người khác trong gia đình vẫn không mấy sáng sủa. Sau khi phân chia gia đình, gánh nặng của cha càng thêm nặng, tuổi đã cao mà vẫn phải như một thanh niên ra đồng lao động. Em trai thì một mình lưu lạc bên ngoài, ai biết đã thành ra sao. Tình cảnh của chị gái vẫn chẳng khác gì trước đây; ngay cả cô em gái đang học cấp ba cũng phải sống trong cảnh rất khó khăn.
Trán Tôn Thiếu An rịn ra một lớp mồ hôi lạnh. Trong lòng anh bỗng dâng lên một nỗi hổ thẹn: sau khi phân chia gia đình, anh chỉ lo chuyện của bản thân, hầu như chẳng làm tròn trách nhiệm với những người khác trong nhà. Anh thật hỗn xược quá! Suốt ngày chỉ lo kiếm tiền cho mình, ngay cả em trai và em gái cũng chẳng kịp thăm hỏi lấy một câu — nói cho đúng thì họ vẫn còn chưa thật sự trưởng thành!
Tôn Thiếu An gắng gượng giữ nụ cười tiễn ba vị khách ra khỏi nhà ăn quốc doanh.
Anh quyết định lập tức đến trường trung học tìm em gái — anh muốn để lại cho cô năm mươi đồng.
Phải rồi, cô em gái yêu quý sắp tốt nghiệp cấp ba, đã là một cô gái lớn, nhất là trong chuyện ăn mặc thì cũng nên có dáng vẻ ra trò. Vốn dĩ anh định tự mình đến cửa hàng mua vài bộ quần áo cho Lan Hương, nhưng lại sợ không vừa người, nên quyết định đến tận trường đưa tiền để em tự chọn mua một bộ thật đẹp.
Tôn Thiếu An xách chiếc cặp da nhân tạo màu đen, vội vã đi đến trường trung học. Trước đó, anh đã hỏi kỹ về một chuyến xe thuận tiện đến Thạch Cách Tiết; đưa tiền cho Lan Hương xong, anh phải nhanh chóng bắt xe quay về — anh đã đi khỏi nhà mấy ngày rồi, trong lòng lo lắng về cái sân gạch ấy ở nhà. Một mình Tú Liên không xoay xở nổi đâu!
Lan Hương đang học tự học. Anh gọi cô ra khỏi lớp học, ra ngoài sân vận động lớn. Anh trước tiên hỏi qua tình hình của em gái.
Lan Hương nói mọi thứ đều ổn cả.
Vậy là anh lấy ra năm mươi đồng đưa cho em.
Nhưng Lan Hương lại không nhận. Không hiểu sao trong mắt cô bỗng trào lên nước mắt, nói: “Em có tiền mà…”
“Em lấy đâu ra tiền!” Thiếu An thấy em không nhận, có phần bực mình. “Anh Hai gửi cho em mỗi tháng mười đồng…”
Tôn Thiếu An sững người.
Trời ạ, anh không ngờ em trai vẫn luôn gửi tiền cho em gái!
Cổ họng anh lập tức như bị một khối gì đó nghẹn lại.
Anh dịu giọng nói: “Tiền anh Hai cho là của anh Hai, đây là của anh Cả, em cầm lấy mà mua một bộ đồ mới, em xem quần áo em mặc cũ cả rồi…” Lan Hương móc móc ngón tay, đột nhiên ngẩng mặt lên, dùng đôi mắt đẫm lệ nhìn anh trai, nói: “Anh, em hiểu lòng anh mà. Giờ nhà đã chia ra rồi, bên anh còn có chị dâu nữa. Em không muốn làm anh khó xử. Anh đừng đưa tiền cho em. Em không muốn chị dâu và anh cãi nhau. Em cũng không thiếu thốn gì đâu…”
Mắt Tôn Thiếu An cay xè.
Anh lại cố nhét tiền vào tay em gái. Lan Hương lại quay người đi, lau nước mắt rồi chạy vụt về lớp học… Tôn Thiếu An cầm năm mươi đồng trong tay, ngơ ngác đứng giữa sân vận động trống trải của trường trung học, một trái tim đau đớn như đang ngâm trong nước kiềm chát đắng.
… Anh không biết mình đã rời khỏi trường trung học Nguyên Tây bằng cách nào. Anh cũng không biết mình đã từ Nguyên Tây quay về công xã Thạch Cát Tiết ra sao… Sau khi xuống xe ở Thạch Cách Tiết, Tôn Thiếu An bước đi thất thần hướng về làng Song Thủy.
Trên đường đi, nỗi nghẹn ngào không lời không ngừng dâng lên nơi cổ họng. Ngực anh như bị đè bởi một tảng đá. Đau khổ biết bao! Anh nhớ lại, năm đó vì mở rộng đất tự canh mà bị phê bình ở công xã, chính là với tâm trạng đau khổ thế này mà anh đi dọc con đường này trở về làng. Khi đó, nỗi đau khổ hoàn toàn là vì nghèo khó. Nhưng bây giờ, trong người anh có cả một cuộn tiền mặt, lại một lần nữa chìm vào đau khổ sâu sắc!
Cuộc sống ơi, vì sao vậy? Nghèo khổ khiến người ta đau đớn, nhưng có tiền rồi sao vẫn đau khổ?
Qua khỏi làng Quán Tử, khi sắp vào làng Song Thủy, Tôn Thiếu An thật sự không chịu nổi nữa. Anh đột nhiên rẽ khỏi đường cái, đi vào một cánh đồng lúa, tìm một gò đất không ai nhìn thấy, ngã sấp xuống đất, ôm đầu khóc rống lên! Cánh đồng hoang lặng lẽ lắng nghe tiếng khóc của anh.
Mặt trời sắp lặn sau vạn ngọn núi phía tây, trên đỉnh những quả đồi tròn trịa phủ một lớp cam đỏ ấm áp. Một đàn bồ câu hoang xám trắng lướt qua bầu trời xanh biếc, cánh vỗ vang lên một tràng ong ong. Từ bờ sông Đông Lạp gần đó vọng lại tiếng bò rống trầm thấp… Rất lâu sau, Tôn Thiếu An mới bò dậy từ mặt đất. Anh phủi bụi đất trên quần áo, rồi cởi mũ vải trên đầu ra lau vệt nước mắt trên mặt, sau đó uể oải cuốn một điếu thuốc cuộn, ngồi xổm xuống đất lặng lẽ hút. Gương mặt anh xám xịt, trông như vừa trải qua một trận ốm nặng.
Quành qua một gò đồi, anh bỗng đứng khựng lại bên vệ đường.
Anh nhìn thấy xưởng gạch của mình! Ở đó, máy làm gạch đang ầm ầm vận hành, sáu bảy miệng lò nung gạch đỏ rực ánh lửa; khói dày cuồn cuộn như rồng lớn cuốn lên, phủ kín một mảng trời.
Một dòng nước lớn cuồn cuộn bỗng trào dâng trong tim Tôn Thiếu An. Cơ thể mỏi mệt của anh lập tức như bị ai quất mạnh một roi, liền lấy lại tinh thần.
Phải rồi! Dù thế nào đi nữa, anh vẫn phải kiên cường bước tiếp trên con đường mới mở ra này; tất cả mới chỉ bắt đầu, lòng anh không được rối loạn! Một sự nghiệp lớn như vậy, nếu không dồn toàn tâm toàn sức mà làm, để sụp đổ thì hậu quả thật không dám tưởng tượng!
Tuyệt đối không được lơi lỏng! Anh còn phải như trước đây, hăng hái phấn chấn nhảy lên cỗ xe cuộc sống này, ngồi vào vị trí đánh xe, căng chặt mọi cơ bắp và dây thần kinh, hò hét, thúc giục, tiếp tục tiến về phía trước… Tôn Thiếu An nhanh chóng cuốn một điếu thuốc cuộn.
Anh hít khói từ mũi và miệng, sải bước đi nhanh về phía xưởng gạch của mình; từ xa anh đã thấy người vợ đội khăn trắng đầu dê đang đứng chờ bên bức tường gạch xanh rồi.