Chương 42
Đau khổ chẳng lẽ là chịu đựng vô ích sao?
— Thomas Mann
Tình yêu nảy sinh một cách vô thức. Bắt đầu từ lúc nào? Ngay cả họ cũng không biết rõ. Nói chung, chuyện này đến với họ có phần hơi sớm, bởi họ mới chỉ mười chín tuổi. Nhưng nghĩ kỹ thì cũng dễ hiểu. Họ cùng sinh ra ở thôn Cao Gia, từ bé đã chơi đùa trần truồng với nhau, đến tuổi biết xấu hổ thì cùng nhau đeo cặp đến trường làng, rồi lại cùng mang chăn chiếu vào thị trấn học trung học, cho đến khi tốt nghiệp phổ thông, cùng đăng ký vào một trường đại học, cùng một chuyên ngành. Giờ đây họ đang ở trong trạng thái chờ đợi đầy nôn nóng. Mười mấy năm sáng tối bên nhau, lại thêm những bộ phim tình cảm như thủy triều trong vài năm gần đây, sợi dây thần bí trong tâm hồn trai gái cuối cùng cũng bị rung lên, ngân vang những hợp âm chưa thành thục nhưng hết sức ngọt ngào.
Đại Niên là con trai thứ hai của Cao Nhân Sơn, người làng trước. Anh và người cha thật thà, tận tụy của mình giống nhau như đúc, mang trong mình sự chất phác và bướng bỉnh như một cây cao lương mọc lên từ đất hoàng thổ. Dĩ nhiên, kiểu người như vậy thường sở hữu một phẩm chất ít ai bì kịp: sức chịu đựng dẻo dai, có thể đứng vững trước thử thách. Điều này cũng giống như cây cao lương trên đồng ruộng. Nếu có dịp đi lên miền núi phía Bắc Trung Quốc vào lúc đại hạn, bạn sẽ thấy: khi hầu hết thực vật đều héo rũ dưới nắng gắt, thì cây cao lương vẫn hiên ngang ngẩng cao thân mình, đến mùa thu còn dâng lên một bông hạt đỏ au.
Nói đến cha của Đại Niên – ông Cao Nhân Sơn – tuy tuổi đã cao, nhưng vẫn gồng mình vất vả nuôi hai con trai ăn học, quyết không để chúng không thành danh. Con trai cả thi trượt đại học hai năm trước, đã từ bỏ ước mộng để quay về làm nông. Nhưng ông vẫn không nản, vẫn thề thốt với bà con rằng nhất định sẽ đưa Đại Niên bước chân vào đại học. Đại Niên tuy không quá thông minh, nhưng cũng như cha mình, có một ý chí bền bỉ như trâu, nhờ chăm chỉ mà kết quả học tập luôn xuất sắc.
Tiểu Lệ lại là kiểu người khác. Thông minh, lanh lợi, hoạt bát như một chú dê con. Dù cũng là con gái nông thôn chính hiệu, nhưng lại có trí tưởng tượng rất phong phú. Chuyện tình yêu giữa cô và Đại Niên (tạm gọi như thế) cũng do cô chủ động bày tỏ trước. Có lần, trên đường về quê vào chiều thứ Bảy, cô còn chọc ghẹo khiến Đại Niên đuổi theo mình như trong phim tình cảm. Cô vừa chạy vừa nghịch ngợm diễn mấy động tác kiểu “quay chậm”… Trong những ngày tháng ấy, anh thanh niên mộc mạc Đại Niên bắt đầu cảm thấy mình đã thực sự trở thành một người đàn ông. Anh yêu rồi, điều đó đồng nghĩa với sự kết thúc của thời thơ ấu. Anh yêu Tiểu Lệ như yêu ánh mặt trời rạng rỡ. Nhưng anh lại yêu quá nghiêm túc, quá say mê, đến mức ảnh hưởng đến việc học năm cuối. Không lâu sau, anh sẽ hiểu rõ mình phải trả giá như thế nào cho tình yêu ấy. Tất nhiên, đứng trên quan điểm của chúng ta, thì điều đó có thể tha thứ được: vì khi ở độ tuổi ấy, ai chẳng từng không thể kiểm soát được cảm xúc và hành vi của bản thân. Nhưng sự đau khổ và bất hạnh của một người, thường lại bắt đầu từ chính giai đoạn này, và cũng có thể nói rằng, cuộc đời thực sự – có lẽ – cũng bắt đầu từ đây.
Một tiếng sét giáng xuống Cao Đại Niên: Anh trượt đại học!
Ngày tin tức chính xác được truyền đến, anh một mình chạy ra sân đập lúa trước làng, đau đớn và tê dại nằm vật trên đống cỏ khô. Cha anh, mẹ anh, anh trai anh, lần lượt tìm đến. Họ sợ anh nghĩ quẩn. Ba người thân yêu vây thành vòng tròn, từng người mặt mũi ủ ê ngồi xổm trước mặt anh, không biết nói gì ngoài những tiếng thở dài nối tiếp nhau. Điều đó chỉ càng làm nỗi đau của anh thêm sâu sắc. Ôi! Anh đã phụ sự vất vả và kỳ vọng lớn lao của ba người thân này.
“Tao đã sớm nhận ra, là Tiểu Lệ khiến mày phân tâm rồi… Ôi! Mày là thằng ngốc! Đáng ra nên lập nghiệp trước rồi mới tính đến chuyện lập gia đình! Với lại, mày vẫn còn là một đứa trẻ, không học hành đàng hoàng thì làm được gì…” Người cha vừa nói, vừa xoa hai bàn tay thô ráp vào nhau, trút ra những nỗi oán giận trong lòng.
“Con bé đó là yêu tinh!” Anh trai nghiến răng nghiến lợi nói.
“Không thể trách cô ấy!” Anh bỗng ngồi bật dậy, gương mặt đầy giận dữ. Anh không thể chịu nổi việc họ dùng thái độ khinh miệt để nói về Tiểu Lệ – người con gái mà anh tôn thờ như thần thánh. Tuy rằng vì chuyện này mà trượt đại học, nhưng anh không hối hận về mối tình ấy. Điều đó hoàn toàn không phải vì trẻ con: bởi vì chúng ta biết rõ, anh luôn nghiêm túc với chuyện này.
Cha anh cũng nổi giận, ông đột ngột đứng bật dậy, hai môi run lên vì kích động, rõ ràng định mắng chửi một trận, nhưng giận đến mức không thốt nên lời. Ông chỉ lấy bàn tay chai sạn sờ mạnh lên mặt đầy râu, quay người bỏ đi. Ông Cao Nhân Sơn vừa đi vừa thở dài, cái đầu từng kiêu hãnh giờ cúi rạp trước ngực. Thái độ ấy chẳng khác nào công khai tuyên bố với bà con: Giấc mộng “rồng hóa con” của ông đã hoàn toàn tan vỡ!
Lúc ấy đúng vào giữa trưa, nắng cuối hè đầu thu vẫn còn gay gắt. Đại Niên ngồi ngây người trên sân đất, mồ hôi chảy ròng ròng trên gương mặt đỏ như cao lương, hai bàn tay bới đất bới cát. Mẹ anh ngồi bên cạnh khóc rưng rức. Anh cố dỗ mẹ về nhà, bảo bà yên tâm: anh tuyệt đối không nghĩ quẩn, chỉ muốn yên tĩnh một mình một lúc.
Tất nhiên, việc anh bảo mẹ về nhà còn có lý do quan trọng hơn: anh nhìn thấy Tiểu Lệ đang từ phía đường cái huyện bước về. Cô về nhà, tất nhiên sẽ đi qua sân này.
Trước mắt anh như có một mặt trời khác vừa mọc lên. Nỗi đau tạm thời bị một cảm xúc khó tả khác lấn át. Anh chờ cô tiến về phía mình.
Cô đến rồi. Rõ ràng không ngờ sẽ gặp anh ở đây, trên gương mặt hiện lên vẻ ngạc nhiên – có lẽ nói thế chưa chuẩn xác – nhưng nét biểu cảm khó tả ấy nhanh chóng biến mất. Cô lập tức vui vẻ rút ra một tờ giấy, giơ lên trước mắt anh , nói với giọng run run: “Giấy báo trúng tuyển của tớ đây! Khoa Hóa Đại học Sư phạm tỉnh – nguyện vọng hai đó…” Cô cũng mới mười chín tuổi, hoàn toàn không thể che giấu niềm vui sướng trước một người đang chìm trong nỗi đau đớn tột cùng. Đến khi nhận ra sự không thích hợp của hành động ấy, thì đã quá muộn. Cô kinh hoàng phát hiện gương mặt trước mặt mình bỗng trắng bệch như tro tàn, rồi người ấy đổ vật xuống đất, ôm đầu không nói một lời.
“Vài hôm nữa tớ phải đi rồi, thời gian nhập học rất gấp…” Cô cố kiềm chế sự phấn khích, nhưng giọng vẫn run rẩy.
“Chúng ta mãi mãi là bạn tốt.” Đừng thấy cô còn nhỏ, nhưng cũng đã học được chút khôn ngoan. Câu này của cô thực chất đã hàm chứa một ngụ ý rất rõ ràng.
Đáng tiếc, người thật thà như anh lại không hiểu được hàm ý đó, ngược lại còn xúc động. Nhưng cô không để anh mở miệng, lập tức nói luôn: “Chúng ta còn trẻ, chuyện trước kia chỉ là đùa giỡn thôi. Thật ra tớ cũng mong hai đứa cùng đỗ đại học, sau này… Tớ rất buồn vì cậu. Đại Niên, cậu đừng nghĩ nhiều, cậu học cũng khá, nhưng số phận con người khó nói lắm. Dĩ nhiên, chúng ta mãi mãi là bạn tốt…”
Ôi! Thì ra là vậy. Lần này anh thật sự hiểu ra rồi. Anh cảm thấy mặt trời trước mắt mình bỗng mất đi ánh hào quang chói lọi. Cái giá đắt anh phải trả, đổi lại chỉ là mấy anh nhẹ bẫng như không!
Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, tất cả sự ngây thơ mà Cao Đại Niên giữ gìn từ nhỏ đến giờ, đều bị quét sạch không còn sót lại. Đúng vậy, lần đầu tiên anh nhận ra: cuộc sống thực chất nghiệt ngã đến nhường nào!
Anh không nói gì, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt, rồi quay người bỏ đi như cha mình vừa nãy. Nhưng anh không cúi đầu trước ngực như cha, mà cố gắng ngẩng cao đầu – tư thế ấy chẳng khác nào công khai tuyên bố với cả thế giới: Cao Đại Niên giờ đây mới thật sự trở thành một người đàn ông rồi.
Đau khổ… điều đó không cần nói cũng rõ. Đòn đánh kép này, dù là người lớn từng trải cũng chưa chắc chịu nổi, huống chi anh mới mười chín tuổi – nói đúng ra, vẫn chỉ là một đứa trẻ.
Anh vốn đã ít nói, giờ thì hoàn toàn im lặng như câm, không hé một lời, theo cha và anh bước vào cuộc đời lao động gian khổ. May mà làng đã giao khoán đất về từng nhà, không còn làm chung như trước, nên nỗi buồn của anh chỉ có người nhà mới biết. Anh cố gắng tránh tiếp xúc với người ngoài.
Ban đêm, anh mở trừng mắt không ngủ được. Thế là khoác áo bông chỉ mặc mùa đông, lén rời khỏi nhà, một mình lang thang vô định bên khúc sông trước làng, như một linh hồn lang thang. Hình bóng Tiểu Lệ không lúc nào buông tha anh. Anh muốn hận, nhưng không thể, bởi những ký ức ngọt ngào vẫn quấn quýt trong lòng, không cách nào dứt bỏ.
Nhưng điều đau khổ hơn cả là: anh cảm thấy mình đã phụ một thời đại tươi đẹp. Hiện giờ đất nước đang rất cần nhân tài có kiến thức, mà anh thì bao khát vọng cống hiến cho tổ quốc! “Bốn hiện đại hóa” đối với một số người chỉ là khẩu hiệu, nhưng với một thanh niên đầy nhiệt huyết như anh, lại là điều vô cùng thực tế. Anh biết, tương lai là một thời kỳ vô cùng quan trọng, cần thế hệ của anh làm trụ cột cho đất nước, nhưng anh lại gặp bất hạnh vào đúng thời điểm ấy!
“Mình đau khổ quá…” Anh nghĩ.
“Nhưng,” anh lại nghĩ, “chẳng lẽ cứ để ngọn lửa đau khổ này thiêu rụi mình sao? Không được! Chính vì quá đau khổ, nên mình càng phải cố gắng! Không chỉ làm việc chăm chỉ, mà còn phải học tập chăm chỉ! Tiểu Lệ, rồi sẽ có ngày tôi gặp lại cô, cô cứ đợi xem, đến khi tôi gặp lại cô…” Nghĩ đến đó, răng anh nghiến chặt đến lách cách, hai tay cũng vô thức siết chặt thành nắm đấm. Máu nóng trong người lại sục sôi, một ý thức mới cuối cùng đã thức tỉnh trong đầu anh.
Anh vẫn trầm lặng, miệt mài làm việc.
Không lâu sau, ông Cao Nhân Sơn phát hiện trên đường đi làm của họ, chỗ nào cũng cắm những mảnh đá nhỏ, trên đó viết bằng phấn trắng mấy chữ “ngoại quốc" kỳ quái. Ông nhận ra không phải chữ Trung Quốc, mà lại viết giữa đồng hoang núi vắng, sợ hết hồn, tưởng là có gián điệp nước ngoài, liền kể chuyện lạ ấy với vợ. Nhưng bà chỉ cười nhạt nói: “Ông không thấy trên đá sau nhà mình cũng có ghi à?” Con trai cả không nhịn được cười, nói với cha: “Cha đúng là buồn cười! Gián điệp nước ngoài mò đến tận đây làm gì? ‘Gián điệp’ ngay trong nhà mình. Đó là Đại Niên viết từ vựng tiếng Anh đó.”
“Thế là sao?” Ông hỏi con.
“Tức là, em vẫn muốn thi đại học!”
Hai ông bà há hốc mồm ngạc nhiên. Ông Cao Nhân Sơn lắc cái đầu đã bạc trắng, nói: “Thôi thì làm việc cho tốt đi, mồ mả tổ tiên nhà mình không hợp phong thủy rồi!”
Bất kể thế nào, Đại Niên lại một lần nữa vực dậy tinh thần. Anh bắt đầu ôn tập lại từ môn tiếng Anh mà anh thi kém nhất. Anh không muốn ở nhà vùi đầu học, sợ những người không biết chuyện sẽ coi anh là một kẻ ăn bám, còn những người biết chuyện lại nhân cơ hội cười nhạo anh. Anh có lòng tự trọng của mình.
Nhưng việc học hành như vậy lại cực kỳ gian khổ. Mỗi khi anh gùi một bó hoa màu từ trên núi xuống, mồ hôi làm mắt cay xè đến nỗi chẳng còn phân biệt được những từ tiếng Anh được anh cắm trên mảnh đá ven đường. Nhưng anh vẫn cố gắng hoàn thành kế hoạch học tập hàng ngày. Thời gian trôi đi, anh trở nên giống một nhà tu khổ hạnh, thường xuyên mệt đến hoa mắt, bước đi lảo đảo, đầu lúc nào cũng cúi gục như chẳng còn chút sức lực. Thế nhưng, tinh thần anh chưa bao giờ dâng cao như lúc này. Xem kìa, anh vừa đi vừa lẩm nhẩm, vào nhà vệ sinh cũng lẩm nhẩm, ngồi tính toán dưới ánh đèn dầu, thường vì gật đầu ngủ mà làm cháy tóc, khiến cả đầu bị cháy vàng hoe… Tất cả những điều đó, anh đều chịu đựng được. Đôi khi, nỗi đau đớn lại bất chợt dâng trào trong lòng, dằn vặt đến mức khiến anh như sống không nổi. Mỗi khi như vậy, anh lại lặng lẽ đọc câu nói ấy trong lòng: “Khi nào anh lại gặp em…”
Cũng vào lúc này, một người khác cũng đang bị nỗi đau hành hạ. Không ai khác, chính là mẹ của Tiểu Lệ.
Đông qua xuân đến, băng tuyết tan chảy, đất đai rã băng, vạn vật trên cõi đất lại sinh sôi sức sống dồi dào. Nhưng mùa này lại chẳng phải là dấu hiệu tốt lành đối với người mắc bệnh viêm khớp.
Cứ đến mùa này, đầu gối mẹ Tiểu Lệ lại đau như kim thép đâm vào. Năm nay, đầu xuân đặc biệt nghiêm trọng. Một quả phụ chưa hẳn là bất hạnh, cũng chẳng thể nói là hạnh phúc. Tuy chồng bà mất sớm nhưng cô con gái yêu lại thi đỗ đại học. Hồi tưởng quá khứ đầy cay đắng, nhưng nghĩ về tương lai lại thấy ngọt ngào: chỉ cần gắng gượng thêm vài năm nữa, đợi Tiểu Lệ tốt nghiệp, bà có thể theo con hưởng phúc rồi!
Nhưng cuộc sống hiện tại quả thật không dễ dàng. Bên cạnh không một người thân, đất đai đã chia khoán hết, vậy ai sẽ giúp bà trồng trọt đây? Chẳng mấy chốc sẽ phải làm đất, bà không biết lần này nên nhờ nhà ai trong thôn. Nếu là những năm trước, bà không lo, vì còn có nhà Cao Nhân Sơn giúp đỡ. Giờ thì còn mặt mũi nào mà nhờ vả ông ta nữa chứ!
Hôm ấy, bà ra giếng nước dưới đáy khe múc nước. Trên đường về, cái chân đau chết tiệt lại phát tác khi lên đến lưng chừng dốc, đau đến mức không thể bước nổi. Bà đặt vò nước xuống bên đường, hai tay ôm lấy đầu gối, miệng há ra há vào, chỉ còn thiếu điều bật khóc thành tiếng!
Đúng lúc đó, ba cha con Cao Nhân Sơn từ khe sau núi đi về, đang đi trên con đường nhỏ bên kia sông về nhà. Cả ba đều nhìn thấy cảnh tượng bên này. Anh trai Đại Niên rõ ràng là có chút hả hê, bĩu môi một cái rồi cứ thế quay đầu đi tiếp. Đại Niên nhìn sang cha, ông cụ cúi đầu bước đi, giả vờ như chẳng thấy gì.
Đại Niên đứng lại. Anh nhìn bóng cha và anh trai phía trước, trong lòng cảm thấy chua xót. Tinh thần làm việc chăm chỉ của cha và anh khiến người ta kính nể, nhưng cái đầu óc nông dân thiển cận ấy lại khiến người ta chẳng thể tôn trọng nổi.
Anh lặng lẽ rẽ vào con đường nhỏ vòng qua khúc sông, đi về phía mẹ Tiểu Lệ. Anh là người từng chịu nhiều đau khổ, vì thế anh cũng cảm thông với người phụ nữ đang bị bệnh hành hạ trước mắt này, dù rằng nỗi đau của anh chính là do con gái bà đem đến.
Anh đi đến trước mặt bà lão, không nói một lời, nhấc vò nước bên cạnh bà lên. Trên gương mặt đau đớn của mẹ Tiểu Lệ bỗng trào dâng một biểu cảm khó tả. Nhưng bà chỉ nói vọng từ phía sau: “Niên à, cửa mở đấy, bình nước nóng có nước, trên bàn có trà, trong ngăn kéo có thuốc lá, con cứ tự tìm mà dùng. Dạo này chân bác yếu lắm, đi không nhanh được đâu…” Nói đến đây, giọng bà nghẹn ngào.
Anh xách vò nước vào nhà bà, đổ vào chum.
Lúc ra ngoài, anh không nhịn được liếc nhìn khung ảnh treo trên tường. Là cô ấy, đứng dưới bảng hiệu cổng trường đại học, nụ cười tươi như hoa, gần như chẳng còn giống dáng vẻ trước kia nữa…
Anh cố gắng kiềm chế, không để hai hàng nước mắt trong mắt mình trào ra.
Anh ra khỏi sân, đứng ở chỗ trước đây thường đợi Tiểu Lệ. Tất cả những ký ức xưa cũ như gần kề ngay trước mắt, rõ ràng đến lạ, mà cũng xa vời đến vô cùng… Anh thấy mẹ Tiểu Lệ đang tập tễnh từ dốc đi lên, miệng không ngừng rên rỉ. Anh liền nhanh chóng men theo một con đường khác xuống núi. Anh không muốn nhìn thấy nỗi đau của bà, cũng không muốn để bà nhìn thấy nỗi đau của chính mình.
Sáng hôm sau, cha anh chuẩn bị xong nông cụ, gọi hai anh em đi cày ruộng.
Anh bước đến trước mặt cha, nói: “Mình đi cày ruộng cho nhà Tiểu Lệ trước đi!” Câu nói ấy khiến hai gương mặt thô ráp sững sờ. Anh trai anh không kìm được, nói: “Mày không thấy nhục tổ tiên à? Bà ấy còn là mẹ vợ mày nữa sao?”
“Nếu anh không muốn đi, thì cút!” Anh đột nhiên nổi giận.
Anh trai anh quẳng cái cày xuống đất, quay vào nhà.
Anh quay mặt nhìn cha.
Và anh nhìn thấy gì? À, trên gương mặt già nua đầy nếp nhăn giống hệt anh, xuất hiện một nét áy náy. Bản tính lương thiện, chất phác lại một lần nữa sống dậy trên người ông lão.
Không ai ngờ rằng, Cao Đại Niên – người trượt đại học năm ngoái – năm nay lại thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng ở Bắc Kinh.
Đúng vậy, anh đã thi đỗ rồi. Vì ngày hôm nay, anh đã chịu đựng một năm đau khổ, phấn đấu suốt một năm. Những gian khổ anh trải qua trong năm ấy, con đường nhỏ trên núi, những mảnh đá ven đường, chiếc đèn dầu trong nhà… tất cả đều hiểu rõ hơn bất kỳ ai bên cạnh anh.
Khi anh cầm giấy báo trúng tuyển từ huyện trở về, lại một lần nữa đến sân tuốt lúa trước làng, nằm xuống đống rơm vàng rực, để mặc những giọt nước mắt hạnh phúc chảy tràn. Cha, mẹ, anh trai anh lần lượt chạy đến. Họ cũng đã biết anh thi đỗ rồi. Ba người thân quây quần quanh anh, từng người một mặt mày rạng rỡ, ngồi xổm trước mặt anh, chẳng ai biết nên nói gì cho phải.
Anh chẳng nói gì nhiều, chỉ nói với anh trai một câu: “Anh à, sau khi em đi, mấy việc trong nhà Tiểu Lệ, anh nhớ giúp họ nhé, mẹ cô ấy chân không tốt…” Anh trai anh vừa vui mừng vừa ngượng ngùng, gật đầu lia lịa.
Anh tạm biệt Cao Gia Thôn thân yêu, tạm biệt vùng cao nguyên đất vàng hùng vĩ, lên xe khách, dọc theo dòng suối nhỏ, men theo con sông lớn cuồn cuộn, rời núi, rời khe, băng qua đồng bằng bao la, tiến vào thành phố tỉnh lỵ sầm uất, náo nhiệt. Anh gửi hành lý nhỏ ở gần ga tàu, mua vé tàu đi Bắc Kinh trong ngày, rồi nghĩ đến việc đến trường sư phạm thăm Tiểu Lệ, còn đến sáu, bảy tiếng nữa mới lên tàu, anh có đủ thời gian.
Anh xách một túi hạt bí rang vàng óng quê nhà, bắt xe buýt đến Đại học Sư phạm. Trường này nằm ở ngoại ô, là điểm cuối của tuyến xe. Anh xuống xe, tim đập thình thịch, đi về phía cổng trường. Tuy chưa từng đến đây, nhưng nơi này không hề xa lạ, anh đã từng thấy trong ảnh.
Khi anh đến dưới bảng hiệu trường nơi Tiểu Lệ chụp ảnh, bỗng đứng khựng lại. “Mình đến đây làm gì?” Anh đột nhiên tự hỏi.
Tim anh như bị ai đó nhói lên, một cơn nhức nhối xộc thẳng lên, khiến anh cảm thấy xấu hổ vì chính mình. Anh hiểu rõ, việc anh muốn gặp Tiểu Lệ, rõ ràng có xen lẫn một loại tâm lý khó nói thành lời: Đừng có coi thường người khác! Chẳng phải đây là một kiểu trả thù trong im lặng sao?
“Sao mình có thể như vậy được!” Anh bắt đầu nghiêm khắc tự trách. Anh nghĩ: Đúng là mình từng chịu nhiều đau khổ, nhưng ngọn lửa của đau khổ cũng đã thiêu cháy chính nỗi đau ấy, khiến mình bước vào một cảnh giới mới cả về tinh thần lẫn cuộc sống. Đúng vậy, mình từng đau khổ, nhưng cũng vì thế mà đã đạt được hạnh phúc. Từ ý nghĩa đó mà nói, mình không nên trách Tiểu Lệ, ngược lại phải cảm ơn cô ấy – dù tất cả những điều ấy đầy xót xa đến nhường nào!
Anh ôm túi hạt bí vào ngực, dựa vào tường, nhắm mắt lại, để trái tim rối bời của mình dần lắng xuống. Sau đó, anh dứt khoát bắt chuyến xe buýt quay trở lại thành phố.
Anh đến bưu điện trung tâm thành phố, vội vàng viết một mẩu giấy: “Tiểu Lệ, mời em nếm thử hạt bí quê mình. – Đại Niên.”
Anh nhét mảnh giấy vào túi, lấy kim chỉ ở quầy, vụng về khâu kín túi hạt bí lại, ghi địa chỉ, rồi gửi đi.
Chiều tối, khi ánh hoàng hôn xinh đẹp lặn xuống nơi cuối thành phố, chuyến tàu tốc hành đi Bắc Kinh bắt đầu lăn bánh. Tiếng bánh xe vang lên mỗi lúc một nhanh, một lớn; gương mặt chất phác của Đại Niên áp sát cửa sổ toa tàu, nhìn ra cánh đồng rộng lớn và bầu trời xanh thẳm, hai giọt nước mắt lấp lánh tuôn trào trong mắt anh.